TỔNG HỢP TIẾP NHẬN VÀ TRẢ LỜI KIẾN NGHỊ CỦA CÁC BỘ, NGÀNH, ỦY BAN NHÂN DÂN CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CỦA BỘ TƯ PHÁP 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2019
LĨNH VỰC XÂY DỰNG, THẨM ĐỊNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ CÔNG TÁC PHÁP CHẾ
1. Đề nghị Bộ Tư pháp tăng cường tổ chức các
lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu các nội dung về công tác soạn thảo, thẩm
định văn bản QPPL; kỹ năng xây dựng chính sách, phân tích chính sách; báo cáo
đánh giá tác động chính sách; nghiệp vụ thẩm định, kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ
thống hóa theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015;
Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ Quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho cán
bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật tại các địa phương (UBND các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang)
Trả lời:
Sau khi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật được ban hành, Bộ Tư pháp đã triển khai tổ chức nhiều lớp
tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu các nội dung về công tác soạn thảo, thẩm định
văn bản quy phạm pháp luật; kỹ năng xây dựng chính sách, phân tích chính sách;
báo cáo đánh giá tác động chính sách cho cán bộ pháp chế và cán bộ làm công tác
xây dựng pháp luật của các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương và địa phương.
Riêng đối với các nội dung liên quan đến quy trình
xây dựng, phân tích, đánh giá tác động và thông qua chính sách, từ thời điểm
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 có hiệu lực thi hành (ngày
01/7/2016) đến hết năm 2018, Bộ Tư pháp đã chủ trì tổ chức 07 lớp tập huấn, tọa
đàm về các nội dung có liên quan đến quy trình chính sách.
Trong năm 2019, Bộ Tư pháp xây dựng kế hoạch để tổ
chức 03 tọa đàm về các nội dung có liên quan như: trao đổi, giải đáp vướng mắc
về lập đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; trao đổi,
giải đáp vướng mắc về lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, nghị định theo quy
định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định 34/2016/NĐ-CP;
các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động đánh giá tác động của chính sách
cho các Bộ, ngành.
Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục xây
dựng kế hoạch để tổ chức các lớp tập huấn liên quan đến công tác xây dựng pháp
luật, nhất là sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2015 được thông qua, nhằm nâng cao kỹ năng, nghiệp
vụ lập đề nghị xây dựng văn bản cho các cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật
của các Bộ, ngành, địa phương.
2. Đề nghị Bộ Tư pháp tham mưu, sửa đổi Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong đó bổ sung quy định chi tiết về ban
hành văn bản quy phạm theo trình tự rút gọn, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
có liên quan trong việc ban hành văn bản trái pháp luật, gây hậu quả và rút
ngắn thời gian công khai lấy ý kiến đối với văn bản quy phạm pháp luật ở địa
phương (UBND tỉnh Đồng Nai,
Long An)
Trả lời:
Tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Nghị quyết số 57/2018/QH14 về Chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 và điều chỉnh Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh năm 2018, theo đó, dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (Luật năm 2015) sẽ trình Quốc
hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2019) và trình Quốc hội thông qua tại
Kỳ họp thứ 9 (tháng 6/2020).
Hiện nay, Bộ Tư pháp đang tiến hành nghiên cứu,
soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật năm 2015 và sẽ trình Chính
phủ trong tháng 7/2019. Trong đó, Bộ Tư pháp đã nghiên cứu theo hướng bổ
sung một số trường hợp được xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo
trình tự, thủ tục rút gọn để phù hợp hơn với thực tiễn thi hành. Đồng thời tiếp tục nghiên cứu để có quy định trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc ban hành văn bản trái pháp
luật, gây hậu quả; nghiên cứu để rút ngắn thời gian công khai lấy ý kiến đối
với văn bản quy phạm pháp luật tại địa phương.
3. Việc áp dụng quy định “Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản
quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành văn bản đó cũng đồng thời hết
hiệu lực” còn khó khăn, vướng mắc. Thực tế thời gian qua các cơ quan Trung ương
(như Chính phủ, các Bộ) ban hành văn bản hướng dẫn thường rất chậm, không đảm
bảo quy định nói trên hoặc sát thời điểm văn bản luật có hiệu lực mới ban hành
văn bản quy định chi tiết (trong khi đó lại có nội dung giao tiếp về cho HĐND,
UBND tỉnh quy định hướng dẫn làm cho địa phương lúng túng trong ban hành văn
bản). Nếu áp dụng đúng như quy định nói trên thì thường xuyên có tình trạng có
những khoảng thời gian không có văn bản để quản lý. Đề xuất sửa đổi quy
định này cho phù hợp (áp dụng như quy định cũ
tại Điều 81 Luật năm 2008), để một văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu luật cần
phải có quy định rõ ràng, cụ thể (bị thay thế, sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ bằng
một văn bản khác).
Một số văn bản dưới luật giao hoặc qua thực tế tại
địa phương phát sinh một số nội dung cần quy định thủ tục hành chính để triển
khai thực hiện các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của địa phương.
Trong trường hợp này nếu địa phương không quy định thủ tục để tổ chức, cá nhân
nhận được mức hỗ trợ sẽ dẫn đến việc tùy tiện trong thực hiện, không đảm bảo
tính công khai, minh bạch; đồng thời có một số cơ quan tự quy định về mẫu đơn,
tờ khai và trình tự thủ tục để hướng dẫn tổ chức, cá nhân thực hiện gây khó
khăn, phiền hà cho các tổ chức, cá nhân. Còn nếu quy định thủ tục hành chính
trong văn bản quy phạm pháp luật của HĐNĐ tỉnh, UBND tỉnh thì lại trái Luật (chỉ cho phép quy định trong trường hợp
được luật giao). Đề nghị Bộ Tư pháp sửa đổi Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật theo hướng mở rộng thẩm quyền ban hành thủ tục hành chính về cho
địa phương (UBND tỉnh Bến Tre)
Trả lời:
- Để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật
và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan trong việc soạn thảo, ban hành văn bản
quy định chi tiết, qua đó từng bước khắc phục tình trạng “nợ, đọng” ban hành
văn bản quy định chi tiết, thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015 (Luật năm 2015) bổ sung quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn
bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành văn bản đó cũng đồng thời hết
hiệu lực”.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại
những vấn đề mà địa phương đã nêu, để có giải pháp cho vấn đề này, Bộ Tư pháp
đã hướng dẫn, giải đáp trực tiếp tại các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu và
tại các buổi kiểm tra về tình hình thi hành Luật năm 2015, nhằm có cách hiểu
thống nhất quy định tại khoản 4 Điều 154. Theo đó: Luật năm 2015 và Nghị định
số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng có các quy
định bảo đảm cách hiểu thống nhất khoản 4 Điều 154, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về việc xác định
văn bản quy định chi tiết hết hiệu lực: đã được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 11 của
Luật năm 2015. Đồng thời, khoản
2 Điều 38 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP đã hướng dẫn chi tiết việc xác định các
trường hợp văn bản quy định chi tiết thi hành hết hiệu lực.
Thứ hai, về trách nhiệm lập, công bố danh mục các văn bản
quy định chi tiết hết hiệu lực: khoản 3, 4 và 5 Nghị định
số 34/2016/NĐ-CP
quy định các bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo VBQPPL hết hiệu lực theo
quy định tại khoản 4 Điều 154, cơ quan ban hành văn bản quy định chi tiết hết
hiệu lực và Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm lập, công bố danh mục văn
bản quy định chi tiết theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền công bố
danh mục văn bản quy định chi tiết thi hành hết hiệu lực theo quy định tại
khoản 4 Điều 154 trước ngày các văn bản đó hết hiệu lực.
Vì vậy, những khó khăn, vướng mắc
trong thực thi quy định tại khoản 4 Điều 154 không hoàn toàn là do quy định của
Luật và Nghị định mà còn xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan
khác. Do vậy, Bộ Tư pháp thấy rằng cần có thêm thời gian để các Bộ, ngành, địa
phương tiếp tục thực hiện các quy định này. Cùng với đó, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục
tổng hợp những khó khăn, vướng mắc của Bộ, ngành, địa phương liên quan đến quy
định tại khoản 4 Điều 154 của Luật nhằm đánh giá đầy đủ, nghiên cứu thấu đáo cả
về lý luận và thực tiễn trước khi đề xuất việc sửa đổi, bổ sung quy định này.
Trong thời gian tới,
để khắc phục triệt để những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện quy định
tại khoản 4 Điều 154 nêu trên, Lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục
quán triệt, thực hiện nghiêm và có hiệu quả các quy định của Luật năm 2015 và
Nghị định số 34/2016/NĐ-CP liên quan đến trách nhiệm soạn thảo, ban hành văn
bản quy định chi tiết, trách nhiệm rà soát, lập, công bố danh mục văn bản quy
định chi tiết thi hành hết hiệu lực.
- Về vấn đề một số văn bản dưới luật giao hoặc qua thực tế tại địa phương
phát sinh một số nội dung cần quy định TTHC để triển khai thực hiện các quy
định trong văn bản quy phạm pháp luật của địa phương:
Khoản 4 Điều 14 Luật
năm 2015 nghiêm cấm quy định thủ tục hành chính trong văn bản quy phạm pháp
luật của địa phương, trừ trường hợp được giao trong luật. Đối với vấn đề nêu
trên, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 4218/BTP-VĐCXDPL ngày 28/11/2016 về việc trả
lời về một số quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và
Nghị định số 34/2016/NĐ-CP. Trong đó đã hướng dẫn các trường hợp được quy định
thủ tục hành chính trong văn bản quy phạm pháp luật của địa phương. Theo đó,
văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương chỉ được quy định thủ tục
hành chính, khi được giao trong luật, không phải được giao trong các văn bản
dưới luật và phải được giao một cách trực tiếp trong luật, không phải suy luận
từ chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan. Ngoài ra, một số luật được ban
hành trước ngày Luật năm 2015 có hiệu lực giao quy định chi tiết thi hành một
hoặc một số nội dung cụ thể, mà không trực tiếp giao quy định thủ tục hành
chính, trong khi đó, để thực hiện nhiệm vụ được giao, cần phải quy định thủ tục
hành chính. Do vậy, để thực hiện nhiệm vụ đã được giao trong các luật ban hành
trước ngày 01/7/2016, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước của địa phương thì địa
phương có thể quy định thủ tục hành chính trong trường hợp luật giao quy định
chi tiết nội dung cụ thể của luật mà phát sinh thủ tục hành chính.
Hiện nay, Bộ Tư pháp
giúp Chính phủ xây dựng dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, dự kiến hướng sửa đổi, bổ sung 02 điều (Điều
14 và Điều 172) của Luật năm 2015, cụ thể là:
- Sửa đổi, bổ sung
khoản 4 Điều 14 (Các hành vi bị nghiêm cấm), theo đó bổ sung trường hợp ngoại
lệ cho phép địa phương được quy định thủ tục hành chính trong trường hợp cần
thiết phải quy định thủ tục hành chính trong nghị quyết của HĐND cấp tỉnh quy
định tại khoản 4 Điều 27 của Luật.
- Sửa đổi, bổ sung
khoản 4 Điều 172 (Hiệu lực thi hành) để quy định về sửa đổi, bổ sung các quy
định về thủ tục hành chính đã ban hành trước ngày Luật năm 2015 có hiệu lực
theo hướng cho phép sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có quy định
thủ tục hành chính được ban hành trước ngày 01 tháng 7 năm 2016 với điều kiện
không được làm phát sinh thủ tục hành chính mới hoặc quy định thêm thành phần
hồ sơ, yêu cầu, điều kiện, tăng thời gian giải quyết thủ tục hành chính đang áp
dụng.
4. Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với các Bộ,
ngành liên quan tham mưu ban hành các văn bản quy định về chế độ chính sách đối
với cán bộ làm công tác pháp chế, cán bộ
làm công tác quản lý pháp chế; cụ thể hóa các nội dung liên quan đến tổ chức,
nhân sự của công tác pháp chế theo Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011
của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ
chức pháp chế (UBND các tỉnh
Hà Giang, Đồng Tháp, Long An)
Trả lời:
Có thể nói, cán bộ làm công tác pháp
chế ngày càng được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, khó khăn, phức tạp; chế độ
chính sách cho đội ngũ này đã được quy định tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế nhưng đến
nay chưa có văn bản hướng dẫn để thực hiện, mặc dù, Bộ Tư pháp đã cố gắng tham
mưu áp dụng. Lý do, ngày 27/5/2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
đã ban hành Kết luận số 63-KL/TW về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã
hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020, để thực
hiện Kết luận này, Chính phủ chỉ đạo việc nghiên cứu về chế độ phụ cấp, trong
đó có chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề sẽ được
xử lý trong Đề án cải cách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực
lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp.
Về việc cụ
thể hóa các nội dung liên quan đến tổ chức, nhân sự của công tác pháp chế theo
Nghị định số 55/2011/NĐ-CP:
Hiện
nay, Chính phủ đang xem xét để ban hành các văn bản sửa đổi, bổ sung
liên quan đến cơ cấu tổ chức trong đó có Nghị định thay thế Nghị định số
24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên
môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Ngay sau khi
Chính phủ thông qua Nghị định nêu trên, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với các Bộ,
ngành, địa phương nghiên cứu, tham mưu cấp có thẩm quyền để sửa đổi, bổ sung
Nghị định số 55/2011/NĐ-CP để phù hợp với tình hình thực tế của Bộ, ngành và
địa phương.
5. Đề nghị Bộ
Tư pháp tổ chức đánh giá mô hình pháp chế tại các sở ngành tỉnh để tham mưu
điều chỉnh Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ
cho phù hợp (UBND
tỉnh Bến Tre)
Trả lời:
Sau
hơn 8 năm thực hiện, Nghị định số 55/2011/NĐ-CP đã bộc lộ một số bất cập, hạn
chế cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Điều này gây khó khăn,
vướng mắc cho các Bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện công tác pháp chế,
trong đó có vấn đề về tổ chức và mô hình tổ chức pháp chế tại các cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Do đó, để có cơ sở cho việc, kiến
nghị với cấp có thẩm quyền trong việc
sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2011/NĐ-CP, thời gian qua, Bộ Tư pháp đã tổ
chức nhiều hoạt động để khảo sát, đánh giá về tình hình thực hiện Nghị định số
55/2011/NĐ-CP của Chính phủ như: tổ chức các Đoàn công tác liên ngành (Bộ Tư
pháp, Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ) hoặc các Đoàn công tác do Bộ Tư pháp tổ
chức đi khảo sát tại một số địa phương như: Quảng Bình, Quảng Trị, Thưà Thiên
Huế; Bình Dương; Đồng Nai; Cần Thơ…; tổ chức các Hội nghị đối thoại về công tác
pháp chế tại 2 miền Nam, Bắc, nhiều hội thảo, tọa đàm… để đánh giá về mô hình
tổ chức pháp chế tại các Bộ, ngành, địa phương. Thông qua các hoạt động này, Bộ
đã thu nhận được nhiều ý kiến liên quan đến mô hình tổ chức pháp chế, qua đó,
có cơ sở để tổng hợp, nghiên cứu và đề xuất với cấp có thẩm quyền về mô hình tổ
chức pháp chế trong việc sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2011/NĐ-CP.
6. Do đặc thù của
công tác pháp chế là khối lượng công việc lớn, tính chất đa dạng, phức tạp,
nhiều công việc đột xuất, đòi hỏi có đủ số lượng công chức có trình độ, năng
lực, do đó đề nghị Bộ Tư pháp có giải pháp kiến nghị với cấp có thẩm quyền để
tăng cường nguồn lực và ngân sách cho công tác pháp chế (Thanh tra Chính phủ, Bộ Thông tin &
Truyền thông, Ủy ban Dân tộc)
Trả lời:
Trong thời gian qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ người làm
công tác pháp chế luôn được Bộ Tư pháp xác định là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm nhằm nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ
người làm công tác pháp chế ở các Bộ, ngành, địa phương. Từ đó, Bộ Tư pháp đã tổ chức rất nhiều
đợt tập huấn nhằm tăng cường năng lực cho người làm công tác pháp chế; thường
xuyên đổi mới về nội dung,
phương pháp tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu với nhiều hình thức; biên
soạn nhiều tài liệu, cuốn sổ tay, cẩm nang về nghiệp vụ công tác pháp chế cho
đội ngũ người làm công tác pháp chế ở các Bộ, ngành, địa phương. Thời gian tới,
Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ
pháp chế Bộ, ngành, địa phương; tham mưu để có giải pháp bố trí ngân sách dành
cho công tác pháp chế; đồng thời đề nghị lãnh đạo các Bộ, ngành quan tâm, tạo
điều kiện dành các nguồn lực cần thiết cho công tác pháp chế.
LĨNH VỰC KIỂM TRA, RÀ SOÁT, HỢP NHẤT
VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT, PHÁP ĐIỂN HỆ THỐNG QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1. Đề
nghị Bộ Tư pháp thường xuyên mở các lớp tập huấn nghiệp vụ cho cán
bộ, công chức làm công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy
phạm pháp luật tại các Sở, ban, ngành (UBND
tỉnh Hà Giang, Bộ Xây dựng, Bộ
Quốc Phòng, Thanh tra Chính phủ, Bộ Thông tin & Truyền thông, Ủy ban Dân tộc)
Trả lời:
Thời gian qua, Bộ Tư pháp (Cục Kiểm tra văn
bản QPPL) luôn chú trọng tăng cường tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ cho công chức
thực hiện công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản thông qua việc bồi
dưỡng nghiệp vụ về công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL
tại các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác soạn thảo, ban
hành văn bản QPPL do Bộ Tư pháp tổ chức hàng năm. Bộ cũng chú trọng lồng
ghép nội dung tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ chuyên sâu về công tác kiểm tra, rà
soát, hệ thống hóa văn bản tại các Hội nghị, hội thảo, tọa đàm liên quan đến
công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL, Ngoài ra, Bộ Tư pháp luôn quan tâm hỗ trợ báo cáo viên tham dự,
tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu về kỹ năng, nghiệp vụ kiểm tra, rà soát, hệ
thống hóa văn bản QPPL tại các hội nghị tập huấn do các Bộ, ngành, địa phương
tổ chức.
Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ
tiếp tục tổ chức tập huấn nghiệp vụ về kỹ năng, nghiệp vụ kiểm tra, rà soát, hệ
thống hóa văn bản QPPL cho đội ngũ công chức làm công tác này tại các Bộ,
ngành, địa phương. Tuy nhiên, Bộ cũng đề nghị các Bộ, ngành, địa phương chủ động tổ chức các
lớp tập huấn tại Bộ, ngành, địa phương mình; Bộ Tư pháp sẽ hỗ trợ báo cáo viên tham gia tập huấn theo đề nghị của Bộ,
ngành, địa phương.
2. Bộ Tư pháp và các bộ,
ngành liên quan phối hợp ban hành Thông tư thay thế Thông tư số 122/2011/TTLT-BTC-BTP
ngày 17/8/2011 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định việc
lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm
tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản, theo đó cần quy định cụ thể mức phí
phù hợp để địa phương dễ thực hiện (STP
Bình Dương, Hậu Giang)
Trả lời:
Ngày
30/01/2018, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 351/BTP-KTrVB gửi Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ
sung Thông tư liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP ngày 17/8/2011.
Tuy nhiên, ngày 21/5/2018 Ban Chấp hành
Trung ương ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về chính sách cải cách tiền lương
đối với cán bộ, công chức và viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động
trong doanh nghiệp và người lao động, nêu rõ: “Bãi bỏ các khoản chi ngoài lương của cán bộ, công chức, viên chức có
nguồn gốc từ ngân sách nhà nước như: Tiền bồi dưỡng họp; tiền bồi dưỡng xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề án; hội thảo... ” (khoản 4 mục
III); Từ
năm 2021, áp dụng chế độ tiền lương mới thống nhất đối với cán bộ, công chức,
viên chức, lực lượng vũ trang trong toàn bộ hệ thống chính trị” (khoản 2.2 mục II). Ngày 16/8/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 107/NQ-CP về Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách tiền
lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao
động trong doanh nghiệp, trong đó giao Bộ Tài chính“trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn
bản quy định về cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập theo các nội dung nêu
tại tiết đ điểm 3.1 khoản 3 mục II và các giải
pháp tài chính nêu tại khoản 4 mục III của Nghị quyết số
27-NQ/TW khóa XII, hoàn thành trong quý IV năm 2018”. Trong bối cảnh
đó, việc sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP để
thực hiện trong khoảng thời gian ngắn (2019 -2020) là khó khả thi. Vì vậy, Bộ Tư pháp đã có
Công văn số 4002/BTP-KTrVB ngày 18/10/2018 gửi Bộ Tài chính đề nghị tạm dừng việc sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch
số 122/2011/TTLT-BTC-BTP.
Các lớp tập huấn,
tọa đàm về các nội dung có liên quan đến quy trình chính sách do Vụ VĐCXDPL chủ
trì tổ chức cụ thể là:
Năm 2016: -
Lớp tập huấn chuyên sâu về quy trình xây dựng, phân tích, đánh giá chính sách
và thẩm định đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật cho cán bộ pháp chế và
cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật của các cơ quan Trung ương; 03 lớp tập
huấn chuyên sâu về quy trình xây dựng, phân tích, đánh giá chính sách và thẩm
định đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật cho cán bộ làm công tác xây
dựng pháp luật của các cơ quan thuộc HĐND, UBND, các Sở Tư pháp, Sở, ban, ngành
và các cơ quan, tổ chức khác có liên quan tại các địa phương ở khu vực 3 miền
bắc, trung, nam.
Năm 2017: Tọa
đàm trao đổi kinh nghiệm trong xây dựng nội dung chính sách và đánh giá tác
động chính sách; Tọa đàm về các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Hà Nội.