I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
1. Hỏi: Mục đích của việc
nuôi con nuôi là gì?
Trả lời:
Điều
2 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về mục đích nuôi con nuôi như sau:
Việc
nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích
tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình.
2. Hỏi: Nuôi con nuôi, cha mẹ nuôi, con nuôi, nuôi con nuôi trong nước,
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được hiểu như thế nào?
Trả lời:
Khoản
1, khoản 2, khoản 3, khoản 4, khoản 5 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định
về nuôi con nuôi, cha mẹ nuôi, con nuôi, nuôi con nuôi trong nước, nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài như sau:
1. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ
và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi.
2. Cha mẹ nuôi là người nhận con nuôi sau khi việc
nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký.
3. Con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau
khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký.
4. Nuôi con nuôi trong nước là việc nuôi con nuôi
giữa công dân Việt Nam với nhau thường trú ở Việt Nam.
5. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi
con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với
nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở
nước ngoài.
3. Hỏi: Trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi được hiểu như thế nào?
Trả lời:
Khoản
6, khoản 7 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định trẻ em mồ côi, trẻ em bị
bỏ rơi như sau:
-
“Trẻ em mồ côi” là trẻ em mà cả cha mẹ đẻ đã chết hoặc một trong hai người đã
chết và người kia không xác định được.
-
“Trẻ em bị bỏ rơi” là trẻ em không xác định được cha mẹ đẻ.
4. Hỏi: Thế nào là gia đình gốc, gia đình thay thế?
Trả lời:
Khoản
8, khoản 9 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về gia đình gốc, gia
đình thay thế như sau:
- “Gia đình gốc” là gia đình của những người có
quan hệ huyết thống.
- “Gia đình thay thế” là gia đình nhận trẻ em
làm con nuôi.
5. Hỏi: Nguyên tăc giải
quyết việc nuôi con nuôi được quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều
4 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về nguyên tắc giải quyết việc nuôi con
nuôi như sau:
1. Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng
quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc.
2. Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện,
bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
3. Chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi
không thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước.
6. Hỏi: Thứ tự ưu tiên lựa chọn gia đình thay thế cho trẻ em được quy định
như thế nào?
Trả lời:
Điều
5 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về thứ tự ưu tiên lựa chọn gia đình thay
thế cho trẻ em như sau:
1. Cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột của
người được nhận làm con nuôi;
2. Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước;
3. Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam;
4. Công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài;
5. Người nước ngoài thường trú ở nước ngoài.
6. Trường hợp có nhiều người cùng hàng ưu tiên xin
nhận một người làm con nuôi thì xem xét, giải quyết cho người có điều kiện nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi tốt nhất.
7. Hỏi: Việc khuyến khích hỗ trợ nhân đạo cho việc chăm sóc trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt được quy định như thế nào?
Trả lời:
* Điều 7 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định việc
khuyến khích hỗ trợ nhân đạo cho việc chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như
sau:
Nhà
nước khuyến khích tổ chức, cá nhân hỗ trợ nhân đạo cho việc nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Việc hỗ trợ nhân đạo không được ảnh
hưởng đến việc cho nhận con nuôi.
* Điều 4 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị
định số 24/2019/NĐ-CP ngày 05/3/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
nuôi con nuôi (sau đây viết tắt là Nghị định số 19/2011/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ
sung) quy định việc tiếp nhận, quản lý, sử dụng hỗ trợ nhân đạo cho việc nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như sau:
Việc
hỗ trợ, tiếp nhận, quản lý, sử dụng hỗ trợ nhân đạo nhằm mục đích nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục trẻ em và tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ, nhân viên
chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được thực hiện theo quy định tại
Điều 7 của Luật nuôi con nuôi, pháp luật về tiếp nhận, quản lý và sử dụng các
khoản viện trợ, tài trợ cho các cơ sở nuôi dưỡng công lập và ngoài công lập và
quy định cụ thể sau đây:
1. Cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước hỗ trợ
nhân đạo thông qua chương trình, dự án, viện trợ phi dự án hoặc tài trợ cho Quỹ
bảo trợ trẻ em.
2. Khi hỗ trợ nhân đạo, cá nhân, tổ chức không được
yêu cầu cơ sở nuôi dưỡng cho trẻ em làm con nuôi; cơ sở nuôi dưỡng không được
cam kết cho trẻ em làm con nuôi vì lý do đã nhận hỗ trợ nhân đạo.
Trường
hợp cá nhân, tổ chức hỗ trợ nhân đạo bằng tiền thì phải thực hiện thông qua tài
khoản của cơ sở nuôi dưỡng.
3. Khi hỗ trợ, tiếp nhận hỗ trợ nhân đạo, ngoài việc
thực hiện theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, cha mẹ nuôi nước
ngoài, tổ chức con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt Nam và cơ sở
nuôi dưỡng có trách nhiệm như sau:
a) Cha mẹ nuôi nước ngoài thông tin cho tổ chức
con nuôi nước ngoài về các khoản hỗ trợ nhân đạo đã thực hiện ở Việt Nam;
b) Định kỳ 06 tháng và hằng năm hoặc theo yêu cầu,
tổ chức con nuôi nước ngoài báo cáo Cục Con nuôi thuộc Bộ Tư pháp (sau đây gọi
là Cục Con nuôi) các khoản hỗ trợ nhân đạo của cha mẹ nuôi và của tổ chức;
c) Định kỳ 06 tháng và hằng năm hoặc theo yêu cầu,
cơ sở nuôi dưỡng báo cáo việc tiếp nhận, sử dụng và quản lý các khoản hỗ trợ
nhân đạo theo quy định của pháp luật và báo cáo Cục Con nuôi về việc tiếp nhận,
quản lý và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo của cha mẹ nuôi và tổ chức con
nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt Nam.
8. Hỏi: Điều kiện của người được nhận làm con nuôi được quy định như thế
nào?
Trả lời:
Điều
8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định điều kiện của người được nhận làm con
nuôi như sau:
1. Trẻ em dưới 16 tuổi
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;
b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con
nuôi.
3. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc
thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.
4. Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi,
trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi.
9. Hỏi: Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi được quy định như thế nào?
Trả lời:
* Điều 9 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định thẩm
quyền đăng ký nuôi con nuôi như sau:
1. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi
chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi thường trú của người được giới thiệu làm
con nuôi hoặc của người nhận con nuôi đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước.
2. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) nơi thường trú của
người được giới thiệu làm con nuôi quyết định việc nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài; Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đăng ký việc nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài.
3. Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ở nước ngoài đăng ký việc nuôi con nuôi của công dân Việt Nam tạm trú ở
nước ngoài.
* Điều 2 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP (đã sửa đổi,
bổ sung) quy định về thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi như sau:
1. Đối với việc nuôi con nuôi trong nước, trường hợp
cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi; cô, cậu,
dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú
của người nhận con nuôi hoặc của người được nhận làm con nuôi thực hiện đăng ký
việc nuôi con nuôi. Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi chưa chuyển vào cơ sở nuôi dưỡng
được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập biên bản xác nhận
tình trạng trẻ em bị bỏ rơi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi; trường hợp trẻ
em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có
trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi.
2. Đối với việc nuôi con nuôi nước ngoài, thì Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh), nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi quyết định cho
người đó làm con nuôi; trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con
nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng trẻ em
quyết định cho trẻ em đó làm con nuôi.
Sở
Tư pháp thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi nước ngoài sau khi có quyết định của
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
3. Đối với việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt
Nam với nhau tạm trú ở nước ngoài, thì Cơ quan đại diện nơi tạm trú của người
được nhận làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi
con nuôi; trường hợp cả hai bên tạm trú ở nước không có Cơ quan đại diện, thì
người nhận con nuôi nộp hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi tại Cơ quan đại diện
nào thuận tiện nhất đối với họ.
10. Cơ quan nào có Thẩm
quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt nuôi con nuôi?
Trả lời:
Điều
10 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt
việc nuôi con nuôi như sau:
Tòa
án nhân dân có thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
11. Hỏi: Việc bảo đảm quyền
được biết về nguồn gốc của con nuôi được pháp luật quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều
11 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định việc đảm bảo quyền được biết về nguồn gốc
của con nuôi như sau:
1. Con nuôi có quyền được biết về nguồn gốc của
mình. Không ai được cản trở con nuôi được biết về nguồn gốc của mình.
2. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện cho con
nuôi là người Việt Nam ở nước ngoài về thăm quê hương, đất nước.
12. Hành vi nào bị cấm
trong việc thực hiện nuôi con nuôi?
Trả lời:
Điều
13 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định các hành vi bị cấm như sau:
1. Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột
sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em.
2. Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con
nuôi.
3. Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi.
4. Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật
về dân số.
5. Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người
có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách
ưu đãi của Nhà nước.
6. Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị,
em nhận nhau làm con nuôi.
7. Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật,
phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
13. Hỏi: Người nhận con
nuôi trong nước cần đáp ứng những điều kiện nào?
Trả lời:
Điều
14 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định điều kiện đối với người nhận con nuôi
như sau:
1.
Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;
c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm
việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;
d) Có tư cách đạo đức tốt.
2. Những người sau đây không được nhận con nuôi:
a) Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với
con chưa thành niên;
b) Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại
cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh;
c) Đang chấp hành hình phạt tù;
d) Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc
hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ
dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán,
đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
3. Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ
kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận
cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 điều
này.
14. Hỏi: Trách nhiệm tìm
gia đình thay thế cho trẻ em được quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều
15 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định trách nhiệm tìm gia đình thay thế cho
trẻ em như sau:
1. Trường hợp trẻ em không được nuôi dưỡng trong
môi trường gia đình gốc thì cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm
tìm gia đình thay thế cho trẻ em đó.
2. Việc tìm gia đình thay thế cho trẻ em được quy
định như sau:
a) Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi thì Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi phát hiện trẻ em bị bỏ rơi có trách nhiệm tìm người hoặc tổ chức tạm
thời nuôi dưỡng trẻ em; nếu có người nhận trẻ em làm con nuôi thì Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi phát hiện trẻ em bị bỏ rơi xem xét, giải quyết theo quy định của
pháp luật; nếu không có người nhận trẻ em làm con nuôi thì lập hồ sơ đưa trẻ em
vào cơ sở nuôi dưỡng;
b) Trường hợp trẻ em mồ côi không có người nuôi dưỡng
hoặc trẻ em có cha mẹ đẻ, người thân thích nhưng không có khả năng nuôi dưỡng
thì người giám hộ, cha mẹ đẻ, người thân thích có trách nhiệm báo cáo Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi trẻ em thường trú tìm gia đình thay thế cho trẻ em. Ủy ban
nhân dân cấp xã có trách nhiệm hỗ trợ nuôi dưỡng trẻ em và thông báo, niêm yết
tại trụ sở Ủy ban nhân dân trong thời hạn 60 ngày để tìm người nhận trẻ em làm
con nuôi; nếu có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì Ủy ban nhân dân
cấp xã xem xét, giải quyết. Hết thời hạn thông báo, niêm yết, nếu không có người
trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì Ủy ban nhân dân cấp xã lập hồ sơ đưa trẻ
em vào cơ sở nuôi dưỡng;
c) Trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng cần có gia
đình thay thế, cơ sở nuôi dưỡng lập danh sách gửi Sở Tư pháp. Sở Tư pháp có
trách nhiệm thông báo 03 lần liên tiếp trên báo viết hoặc phương tiện thông tin
đại chúng khác của tỉnh. Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày thông báo, nếu có
người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì người đó liên hệ với Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi trẻ em thường trú để xem xét, giải quyết; nếu việc nhận con nuôi
đã hoàn thành thì Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo Sở Tư pháp để xóa tên trẻ em
đó trong danh sách trẻ em cần tìm gia đình thay thế. Hết thời hạn 60 ngày, kể từ
ngày thông báo, nếu không có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì Sở
Tư pháp gửi danh sách trẻ em cần tìm gia đình thay thế cho Bộ Tư pháp;
d) Bộ Tư pháp có trách nhiệm thông báo tìm người
trong nước nhận trẻ em làm con nuôi trên trang thông tin điện tử của Bộ Tư
pháp.
Trong
thời hạn 60 ngày, kể từ ngày thông báo, nếu có người trong nước nhận trẻ em làm
con nuôi thì người đó liên hệ với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em thường trú
để xem xét, giải quyết; nếu việc nhận con nuôi đã hoàn thành thì Ủy ban nhân
dân cấp xã báo cáo Bộ Tư pháp để xóa tên trẻ em đó trong danh sách trẻ em cần
tìm gia đình thay thế.
Hết
thời hạn 60 ngày, kể từ ngày thông báo, nếu không có người trong nước nhận trẻ
em làm con nuôi thì Bộ Tư pháp thông báo cho Sở Tư pháp.
15. Hỏi: Việc rà soát,
tìm người nhận trẻ em làm con nuôi trong nước được quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều
6 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP (đã sửa đổi, bổ sung) quy định việc rà soát, tìm
người nhận trẻ em làm con nuôi như sau:
1. Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em mồ côi cả
cha và mẹ, trẻ em không nơi nương tựa đang được cá nhân, gia đình, tổ chức tạm
thời nuôi dưỡng hoặc chăm sóc thay thế theo quy định của pháp luật, Ủy ban nhân
dân cấp xã hàng tháng rà soát, đánh giá việc trẻ em cần được nhận làm con nuôi.
Nếu có công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì Ủy
ban nhân dân cấp xã xem xét, giải quyết hoặc hướng dẫn giải quyết việc nuôi con
nuôi theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp tiếp nhận trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em mồ
côi cả cha và mẹ, trẻ em không nơi nương tựa vào sống ở cơ sở nuôi dưỡng, cơ sở
nuôi dưỡng đánh giá việc trẻ em cần được nhận làm con nuôi. Nếu có công dân Việt
Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì cơ sở nuôi dưỡng giao
01 bộ hồ sơ trẻ em cho người nhận con nuôi để thực hiện đăng ký việc nuôi con
nuôi.
Nếu
không có công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì
cơ sở nuôi dưỡng lập hồ sơ trẻ em bao gồm các giấy tờ, tài liệu theo quy định tại
điểm a và điểm b khoản 1 Điều 32 của Luật nuôi con nuôi, xin ý kiến của cơ quan
chủ quản. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ, cơ
quan chủ quản có ý kiến gửi Sở Tư pháp kèm theo hồ sơ trẻ em để thông báo tìm
người nhận con nuôi.
3. Việc tìm người nhận trẻ em làm con nuôi được thực
hiện như sau:
a) Khi tiếp nhận hồ sơ trẻ em theo quy định tại
khoản 2 Điều này, nếu có công dân Việt Nam thường trú ở trong nước đăng ký nhu
cầu nhận con nuôi theo quy định tại Điều 16 của Luật nuôi con nuôi thì Sở Tư
pháp giao 01 bộ hồ sơ trẻ em cho người nhận con nuôi và giới thiệu người nhận
con nuôi đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng để xem
xét, giải quyết theo quy định của pháp luật;
b) Trường hợp không có công dân Việt Nam thường
trú ở trong nước đăng ký nhu cầu nhận con nuôi, đối với trẻ em không thuộc diện
quy định tại khoản 1 Điều 3 của Nghị định này thì Sở Tư pháp thông báo tìm người
nhận trẻ em làm con nuôi. Sau khi hết thời hạn thông báo theo quy định tại điểm
c khoản 2 Điều 15 của Luật nuôi con nuôi, nếu không có công dân Việt Nam thường
trú ở trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì Sở Tư pháp gửi 01 bộ hồ sơ trẻ em
bao gồm các giấy tờ, tài liệu theo quy định tại khoản 1 Điều 32 của Luật nuôi
con nuôi cho Cục Con nuôi để thông báo tìm người nhận con nuôi theo quy định tại
điểm d khoản 2 Điều 15 của Luật nuôi con nuôi.
Đối
với trẻ em thuộc diện quy định tại khoản 1 Điều 3 của Nghị định này thì Sở Tư
pháp xác nhận trẻ em đủ điều kiện được cho làm con nuôi và gửi Cục Con nuôi 01
bộ hồ sơ trẻ em bao gồm các giấy tờ, tài liệu theo quy định tại điểm a và điểm
b khoản 1 Điều 32 của Luật nuôi con nuôi và khoản 3 Điều 16 của Nghị định này để
tìm người nhận con nuôi đích danh có điều kiện phù hợp với việc chăm sóc và
nuôi dưỡng trẻ em.
16. Hỏi: Việc đăng ký nhu
cầu nhận con nuôi trong nước được quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều
16 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về đăng ký nhu cầu nhận con nuôi như
sau:
Công
dân Việt Nam có nguyện vọng và đủ điều kiện nhận con nuôi theo quy định của Luật
Nuôi con nuôi nhưng chưa tìm được trẻ em để nhận làm con nuôi thì đăng ký nhu cầu
nhận con nuôi với Sở Tư pháp nơi người đó thường trú; nếu có trẻ em để giới thiệu
làm con nuôi thì Sở Tư pháp giới thiệu đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em đó
thường trú để xem xét, giải quyết.
17. Hỏi: Thành phần hồ sơ
của người nhận con nuôi trong nước và thời hạn có giá trị sử dụng của giấy tờ
được quy định như thế nào?
Trả lời:
*
Điều 17 Luật Nuôi con nuôi quy định về hồ sơ của người nhận con nuôi gồm có:
1.
Đơn xin nhận con nuôi;
2. Bản sao Hộ chiếu, Giấy chứng minh nhân dân hoặc
giấy tờ có giá trị thay thế;
3. Phiếu lý lịch tư pháp;
4. Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân;
5. Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở
lên cấp; văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh
tế do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú cấp, trừ trường
hợp quy định tại khoản 3 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi.
*
Điều 7 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP (đã sửa đổi, bổ sung) quy định về hồ sơ của
người nhận con nuôi như sau:
Hồ
sơ của người nhận con nuôi trong nước được lập thành 01 bộ, gồm các giấy tờ quy
định tại Điều 17 của Luật Nuôi con nuôi. Trường hợp người nhận con nuôi và người
được nhận làm con nuôi không thuộc diện quy định tại khoản 3 Điều 14 của Luật
Nuôi con nuôi và không cùng thường trú tại một địa bàn xã, thì việc xác nhận về
hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế của người nhận con nuôi
được thực hiện như sau:
1. Trường hợp người nhận con nuôi nộp hồ sơ đăng
ký việc nuôi con nuôi tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người được
nhận làm con nuôi, thì văn bản về hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện
kinh tế của người nhận con nuôi do Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi người đó thường
trú xác nhận.
2.
Trường hợp người nhận con nuôi nộp hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi tại Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi người đó thường trú, thì công chức tư pháp - hộ tịch xác
minh hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế của người nhận con
nuôi.
*
Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP (đã sửa đổi, bổ sung) quy định về thời
hạn có giá trị sử dụng của giấy tờ như sau:
Phiếu
lý lịch tư pháp, giấy khám sức khỏe, văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình
trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế của người nhận con nuôi trong nước theo quy định
tại Điều 17 của Luật Nuôi con nuôi và giấy tờ quy định tại điểm b, điểm đ khoản
1 Điều 21 của Nghị định này có giá trị sử dụng nếu được cấp chưa quá 06 tháng,
tính đến ngày nộp hồ sơ tại Ủy ban nhân dân cấp xã.
18. Hỏi: Hồ sơ của người
được giới thiệu làm con nuôi trong nước bao gồm những giấy tờ nào?
Trả lời:
Điều
18 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về hồ sơ của người được giới thiệu làm
con nuôi trong nước như sau:
1. Hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi
trong nước gồm có:
a) Giấy khai sinh.
b) Giấy khám sức khoẻ do cơ quan y tế cấp huyện trở
lên cấp.
c) Hai ảnh toàn thân, nhìn thẳng chụp không quá 06
tháng.
d) Biên bản xác nhận do Ủy ban nhân dân hoặc Công
an cấp xã nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi lập đối với trẻ em bị bỏ rơi; Giấy chứng
tử của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của trẻ
em là đã chết đối với trẻ em mồ côi; quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ
đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất tích đối với người được giới thiệu
làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ đẻ mất tích; quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ,
mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất năng lực hành vi dân sự đối với
người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ đẻ mất năng lực hành vi dân sự.
đ)
Quyết định tiếp nhận đối với trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng.
2. Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ lập hồ sơ của người
được giới thiệu làm con nuôi sống tại gia đình; cơ sở nuôi dưỡng lập hồ sơ của
trẻ em được giới thiệu làm con nuôi sống tại cơ sở nuôi dưỡng.
19. Hỏi: Việc nộp hồ sơ,
thời hạn giải quyết việc nuôi con nuôi trong nước được quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều
19 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về nộp hồ sơ, thời hạn giải quyết việc
nuôi con nuôi như sau:
1.
Người nhận con nuôi phải nộp hồ sơ của mình và hồ sơ của người được giới thiệu
làm con nuôi tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được giới thiệu làm con nuôi
thường trú hoặc nơi người nhận con nuôi thường trú.
2. Thời hạn giải quyết việc nuôi con nuôi là 30
ngày, kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp xã nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
20. Hỏi: Trách nhiệm lấy
ý kiến của những người liên quan về việc nuôi con nuôi trong nước được quy định
như thế nào?
Trả lời:
*
Điều 8 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP (đã sửa đổi, bổ sung) quy định về trách nhiệm
lấy ý kiến của những người liên quan về việc nuôi con nuôi như sau:
1. Việc lấy ý kiến của những người liên quan về việc
nuôi con nuôi được thực hiện theo quy định tại Điều 20 của Luật Nuôi con nuôi
và do công chức tư pháp - hộ tịch của Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của
người được nhận làm con nuôi trực tiếp thực hiện.
2. Trường hợp người nhận con nuôi nộp hồ sơ đăng
ký việc nuôi con nuôi tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi người đó thường trú nhưng
không phải là nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi, thì việc lấy ý
kiến của những người liên quan về việc nuôi con nuôi được thực hiện như sau:
a)
Trường hợp cử công chức tư pháp - hộ tịch trực tiếp đi lấy ý kiến, thì Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi nhận hồ sơ có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi
thường trú của người được nhận làm con nuôi cử công chức tư pháp - hộ tịch của
mình phối hợp lấy ý kiến của những người liên quan.
b)
Trường hợp không thể cử công chức tư pháp - hộ tịch trực tiếp đi lấy ý kiến,
thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi nhận hồ sơ có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp
xã, nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi lấy ý kiến của những người
liên quan.
Trong
thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
nhận hồ sơ, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người được nhận làm con
nuôi cử công chức tư pháp - hộ tịch của mình trực tiếp lấy ý kiến của những người
liên quan và gửi kết quả cho Ủy ban nhân dân cấp xã có yêu cầu.
3. Việc lấy ý kiến phải thể hiện bằng văn bản và
đáp ứng yêu cầu quy định tại khoản 2 Điều 9 của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP đã sửa
đổi, bổ sung.
21. Hỏi: Việc kiểm tra hồ
sơ, lấy ý kiến của những người liên quan về nuôi con nuôi trong nước được quy định
như thế nào?
Trả lời:
*
Điều 20 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về kiểm tra hồ sơ, lẩy ý kiến của
những người liên quan như sau:
Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi nhận hồ sơ có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ; trong thời hạn
10 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, tiến hành xong việc lập ý kiến của những
người quy định tại Điều 21 của Luật này.
Việc
lấy ý kiến phải lập thành văn bản và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người được lấy
ý kiến.
*
Điều 9 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP (đã sửa đổi, bổ sung) quy định yêu cầu về kiểm
tra hồ sơ và lẩy ý kiến của những người liên quan như sau:
1. Khi kiểm tra hồ sơ, công chức tư pháp - hộ tịch
phải nghiên cứu, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng và hoàn cảnh của những người liên
quan. Trường hợp người được nhận làm con nuôi có cha mẹ đẻ, thì công chức tư
pháp - hộ tịch kiểm tra việc cha mẹ đẻ có thỏa thuận với cha mẹ nuôi để giữ lại
quyền, nghĩa vụ đối với con và cách thức thực hiện quyền, nghĩa vụ đó sau khi
đã cho làm con nuôi.
2. Khi lấy ý kiến của những người liên quan theo
quy định tại Điều 20 và Điều 21 của Luật Nuôi con nuôi, công chức tư pháp - hộ
tịch phải tư vấn để trẻ em tiếp tục được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục phù hợp
với điều kiện và khả năng thực tế của gia đình.
Trường hợp cho trẻ em làm con nuôi là
giải pháp cuối cùng vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, thì công chức tư pháp - hộ
tịch phải tư vấn đầy đủ cho những người liên quan về mục đích nuôi con nuôi;
quyền và nghĩa vụ phát sinh giữa cha mẹ nuôi và con nuôi sau khi đăng ký nuôi
con nuôi; về việc cha mẹ đẻ sẽ không còn các quyền, nghĩa vụ đối với con theo
quy định tại khoản 4 Điều 24 của Luật Nuôi con nuôi, nếu cha mẹ đẻ và cha mẹ
nuôi không có thỏa thuận khác.
3. Trường hợp những người liên quan do chưa nhận
thức đầy đủ, chưa hiểu rõ những vấn đề được tư vấn hoặc bị ảnh hưởng, tác động
bởi yếu tố tâm lý, sức khỏe đã đồng ý cho trẻ em làm con nuôi sau đó muốn thay
đổi ý kiến, thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được lấy ý kiến, những người
liên quan phải thông báo bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đang giải
quyết hồ sơ nuôi con nuôi. Hết thời hạn này, những người liên quan không được
thay đổi ý kiến về việc cho trẻ em làm con nuôi.
22. Hỏi: Sự đồng ý cho
làm con nuôi được quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều
21 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về sự đồng ý cho làm con nuôi như sau:
1. Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của
cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi; nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất
tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng
ý của người còn lại; nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành
vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ;
trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự
đồng ý của trẻ em đó.
2. Người đồng ý cho làm con nuôi quy định tại khoản
1 điều này phải được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi nhận hồ sơ tư vấn đầy đủ về mục
đích nuôi con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; quyền, nghĩa
vụ giữa cha mẹ đẻ và con sau khi người đó được nhận làm con nuôi.
3. Sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực,
không bị ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo
yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác.
4. Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi
sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày.
23. Hỏi: Thủ tục đăng ký
nuôi con nuôi trong nước được quy định như thế nào?
Trả lời:
*
Điều 22 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về thủ tục đăng ký nuôi con nuôi
như sau:
1. Khi xét thấy người nhận con nuôi và người được
giới thiệu làm con nuôi có đủ điều kiện theo quy định của Luật này thì Ủy ban
nhân dân cấp xã tổ chức đăng ký nuôi con nuôi, trao Giấy chứng nhận nuôi con
nuôi cho cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng,
tổ chức giao nhận con nuôi và ghi vào sổ hộ tịch trong thời hạn 20 ngày, kể từ
ngày có ý kiến đồng ý của những người quy định tại Điều 21 của Luật này.
2. Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã từ chối đăng
ký thì phải trả lời bằng văn bản cho người nhận con nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người
giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng và nêu rõ lý do trong thời hạn 10 ngày,
kể từ ngày có ý kiến của những người quy định tại Điều 21 của Luật này.
3. Giấy chứng nhận nuôi con nuôi được gửi Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi thường trú của người nhận con nuôi hoặc của người được nhận
làm con nuôi.
*
Điều 10 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP (đã sửa đổi, bổ sung) quy định về thủ tục
đăng kỷ nuôi con nuôi như sau:
1. Việc đăng ký nuôi con nuôi được tiến hành tại
trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã. Khi đăng ký nuôi con nuôi, cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ,
người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng và người được nhận làm con nuôi phải
có mặt. Công chức tư pháp - hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký nuôi con nuôi và trao Giấy
chứng nhận nuôi con nuôi cho các bên.
2. Căn cứ vào Giấy chứng nhận nuôi con nuôi, theo
yêu cầu của cha mẹ nuôi và sự đồng ý của con nuôi từ đủ chín tuổi trở lên, cơ
quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền thực hiện việc thay đổi họ, chữ đệm và tên của
con nuôi theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật về hộ tịch.
3. Việc bổ sung, thay đổi thông tin về cha, mẹ
trong Giấy khai sinh của con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật về
hộ tịch.
24. Hỏi: Việc thông báo
tình hình phát triển của con nuôi và theo dõi việc nuôi con nuôi được quy định
như thế nào?
Trả lời:
Điều
23 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về việc thông báo tình hình phát triển
của con nuôi và theo dõi việc nuôi con nuôi như sau:
1. Sáu tháng một lần trong thời hạn 03 năm, kể từ
ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ nuôi có trách nhiệm thông báo cho Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi họ thường trú về tình trạng sức khỏe, thể chất, tinh thần, sự
hòa nhập của con nuôi với cha mẹ nuôi, gia đình, cộng đồng.
2. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cha mẹ nuôi thường
trú có trách nhiệm kiểm tra, theo dõi tình hình thực hiện việc nuôi con nuôi.
25. Hỏi: Hệ quả của việc
nuôi con nuôi được quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều
24 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về hệ quả của việc nuôi con nuôi như
sau:
1. Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi
và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và
các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với
nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và
các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi.
Việc
thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người
đó.
3. Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi được
xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi.
4. Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có
thỏa thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền,
nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường
thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi.
26. Hỏi: Việc nuôi con
nuôi chấm dứt trong trường hợp nào?
Trả lời:
Điều
25 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt
trong các trường hợp sau đây:
1. Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện
chấm dứt việc nuôi con nuôi;
2. Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi,
hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi;
3. Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành
hạ con nuôi;
4. Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật Nuôi con nuôi.
27. Hỏi: Tổ chức, cá nhân
nào có quyên yêu câu chấm dứt việc nuôi con nuôi:
Trả lời:
Điều
26 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu chấm
dứt việc nuôi con nuôi như sau:
1. Cha mẹ nuôi.
2. Con nuôi đã thành niên.
3. Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của con nuôi.
4. Cơ quan, tổ chức sau đây có quyền yêu cầu chấm
dứt việc nuôi con nuôi khi có một trong các căn cứ quy định tại các khoản 2, 3
và 4 Điều 25 của Luật Nuôi con nuôi:
a) Cơ quan lao động, thương binh và xã hội;
b) Hội liên hiệp phụ nữ.
28. Hỏi: Hệ quả của việc
chấm dứt nuôi con nuôi được quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều
27 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi
như sau:
1. Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm
dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
2. Trường hợp con nuôi là người chưa thành niên hoặc
đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa
án quyết định giao cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó.
3. Trường hợp con nuôi được giao cho cha mẹ đẻ thì
các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đẻ đã chấm dứt theo quy định tại khoản 4 Điều 24
của Luật này được khôi phục.
4. Trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được
nhận lại tài sản đó; nếu con nuôi có công lao đóng góp vào khối tài sản chung của
cha mẹ nuôi thì được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo
thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải
quyết.
5. Con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình như
trước khi được cho làm con nuôi.
29. Hỏi: Các trường hợp
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều
28 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài như sau:
1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước
ngoài thường trú ở nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con
nuôi với Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.
2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước
ngoài thường trú ở nước ngoài được nhận con nuôi đích danh trong các trường hợp
sau đây:
a) Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con
nuôi;
b) Là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận
làm con nuôi;
c) Có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được
nhận làm con nuôi;
d) Nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc
bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi;
đ)
Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất
là 01 năm.
3. Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận
trẻ em nước ngoài làm con nuôi.
4. Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con
nuôi ở Việt Nam.
30. Hỏi: Người nhận con
nuôi nước ngoài cần đáp ứng điều kiện nào?
Trả lời:
Điều
29 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về điều kiện đối với người nhận con
nuôi như sau:
1.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài
nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định của
pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy định tại Điều 14 của Luật này.
2. Công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con
nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định tại điều 14 của Luật này và pháp luật
của nước nơi người được nhận làm con nuôi thường trú.
31. Hỏi: Việc hợp pháp
hóa lãnh sự giấy tờ, tài liệu được quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều
30 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định việc hợp pháp hóa lãnh sự giấy tờ, tài
liệu như sau:
Giấy
tờ, tài liệu trong hồ sơ của người nhận con nuôi, hồ sơ của tổ chức con nuôi nước
ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận phải được
hợp pháp hóa lãnh sự khi sử dụng ở Việt Nam, trừ trường hợp được miễn hợp pháp
hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.
32. Hỏi: Thành phần Hồ sơ
của người nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài và thời hạn có giá trị sử dụng của
giấy tờ trong hồ sơ của người nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài được quy định
như thế nào?
Trả lời:
Điều
31 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về hồ sơ của người nhận con nuôi như
sau:
1. Hồ sơ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải
có các giấy tờ, tài liệu sau đây:
a) Đơn xin nhận con nuôi;
b) Bản sao Hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay
thế;
c) Văn bản cho phép được nhận con nuôi ở Việt Nam;
d) Bản điều tra về tâm lý, gia đình;
đ)
Văn bản xác nhận tình trạng sức khỏe;
e) Văn bản xác nhận thu nhập và tài sản;
g) Phiếu lý lịch tư pháp;
h) Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân;
i) Tài liệu chứng minh thuộc trường hợp được xin
đích danh quy định tại khoản 2 Điều 28 của Luật này.
2. Các giấy tờ, tài liệu quy định tại điểm b, c,
d, đ, e, g và h khoản 1 điều này do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người nhận
con nuôi thường trú lập, cấp hoặc xác nhận.
3. Hồ sơ của người nhận con nuôi được lập thành 02
bộ và nộp cho Bộ Tư pháp thông qua cơ quan trung ương về nuôi con nuôi của nước
nơi người nhận con nuôi thường trú; trường hợp nhận con nuôi đích danh quy định
tại khoản 2 Điều 28 của Luật này thì người nhận con nuôi có thể trực tiếp nộp hồ
sơ cho Bộ Tư pháp.
*
Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP (đã sửa đổi, bổ sung) quy định thời hạn
có giá trị sử dụng của giấy tờ trong hồ sơ như sau:
Phiếu
lý lịch tư pháp, văn bản xác nhận tình trạng sức khỏe, bản điều tra về tâm lý,
gia đình, văn bản xác nhận thu nhập và tài sản của người nhận trẻ em Việt Nam
làm con nuôi ở nước ngoài theo quy định tại Điều 31 của Luật Nuôi con nuôi có
giá trị sử dụng nếu được cấp chưa quá 12 tháng, tính đến ngày nộp hồ sơ tại Cục
Con nuôi.
33. Hỏi: Thành phần Hồ sơ
của người được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài được quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều
32 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về hồ sơ của người được giới thiệu làm
con nuôi nước ngoài như sau:
1. Hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi nước
ngoài gồm có:
a) Các giấy tờ, tài liệu quy định tại khoản 1 Điều
18 của Luật này;
b) Văn bản về đặc điểm, sở thích, thói quen đáng
lưu ý của trẻ em;
c) Tài liệu chứng minh đã thực hiện việc tìm gia
đình thay thế trong nước cho trẻ em theo quy định tại khoản 2 điều 15 của Luật
này nhưng không thành.
2. Hồ sơ quy định tại khoản 1 điều này được lập
thành 03 bộ và nộp cho Sở Tư pháp nơi người được giới thiệu làm con nuôi thường
trú.
3. Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ lập hồ sơ của người
được giới thiệu làm con nuôi sống tại gia đình; cơ sở nuôi dưỡng lập hồ sơ của
trẻ em được giới thiệu làm con nuôi sống tại cơ sở nuôi dưỡng.
*
Điều 14 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP (đã sửa đổi, bổ sung) quy định hồ sơ của người
được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài như sau:
Hồ
sơ của người được nhận làm con nuôi phải có các giấy tờ được lập theo quy định
tại Điều 32 của Luật Nuôi con nuôi và các quy định cụ thể sau đây:
1. Bản tóm tắt đặc điểm, sở thích, thói quen của
trẻ em phải ghi trung thực các thông tin về sức khỏe, tình trạng bệnh tật (nếu
có) của trẻ em, sở thích, thói quen hàng ngày đáng lưu ý của trẻ em để thuận lợi
cho người nhận con nuôi trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em sau
khi được nhận làm con nuôi.
Trường
hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi thì
không cần văn bản này.
2. Đối với trẻ em thuộc diện thông qua thủ tục giới
thiệu, thì phải có các văn bản sau đây:
a) Văn bản của Sở Tư pháp kèm theo giấy tờ, tài liệu
về việc đã thông báo tìm gia đình thay thế trong nước cho trẻ em theo quy định
tại điểm c khoản 2 Điều 15 của Luật nuôi con nuôi;
b) Văn bản xác nhận của Cục Con nuôi về việc đã hết
thời hạn thông báo theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 15 của Luật nuôi con
nuôi nhưng không có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi.
3. Tại lễ giao nhận con nuôi, Sở Tư pháp giao cho
cha, mẹ nuôi 01 bộ hồ sơ trẻ em gồm các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 32 của
Luật nuôi con nuôi và văn bản lấy ý kiến của cha, mẹ đẻ hoặc người giám hộ và ý
kiến của trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên về việc đồng ý cho trẻ em làm con nuôi;
trường hợp trẻ em đang sống tại cơ sở nuôi dưỡng thì phải có văn bản lấy ý kiến
của Giám đốc cơ sở nuôi dưỡng về việc cho trẻ em làm con nuôi.
34. Hỏi: Trách nhiệm của
Sở Tư pháp trong việc kiểm tra, xác minh hồ sơ và xác nhận trẻ em có đủ điều kiện
được cho làm con nuôi được quy định như thế nào ?
Trả lời:
*
Điều 33 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về trách nhiệm kiểm tra, xác minh
hồ sơ và xác nhận trẻ em có đủ điều kiện được cho làm con nuôi như sau:
1. Sở Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, tiến
hành lấy ý kiến của những người quy định tại điều 21 của Luật Nuôi con nuôi
trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Việc lấy ý kiến phải lập
thành văn bản và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người được lấy ý kiến.
Trường
hợp trẻ em bị bỏ rơi cần được xác minh thì Sở Tư pháp đề nghị Công an tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương xác minh; cơ quan công an có trách nhiệm xác
minh và trả lời bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đề
nghị của Sở Tư pháp.
2. Sau khi kiểm tra, xác minh theo quy định tại
khoản 1 điều này, nếu thấy trẻ em có đủ điều kiện để cho làm con nuôi nước
ngoài thì Sở Tư pháp xác nhận và gửi Bộ Tư pháp.
*
Điều 15 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP (đã sửa đổi, bổ sung) quy định về kiểm tra hồ
sơ và lẩy ý kiến của những người liên quan về việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước
ngoài như sau:
1. Sở Tư pháp kiểm tra hồ sơ và cử cán bộ trực tiếp
lấy ý kiến của những người liên quan về việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước
ngoài theo quy định tại khoản 1 Điều 33 của Luật Nuôi con nuôi.
2. Việc kiểm tra hồ sơ và lấy ý kiến phải bảo đảm
các yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 9 của Nghị định này.
Trường
hợp những người liên quan do chưa nhận thức đầy đủ, chưa hiểu rõ những vấn đề
được tư vấn hoặc bị ảnh hưởng, tác động bởi yếu tố tâm lý, sức khỏe đã đồng ý
cho trẻ em làm con nuôi sau đó muốn thay đổi ý kiến, thì trong thời hạn 30 ngày
kể từ ngày được lấy ý kiến, những người liên quan phải thông báo bằng văn bản
cho Sở Tư pháp nơi đang giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi. Hết thời hạn này, những
người liên quan không được thay đổi ý kiến về việc cho trẻ em làm con nuôi.
35. Hỏi: Trách nhiệm của
Bộ Tư pháp trong việc kiểm tra và chuyển hồ sơ của người nhận con nuôi được quy
định như thế nào ?
Trả lời:
Điều
34 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về trách nhiệm kiểm tra và chuyển hồ sơ
của người nhận con nuôi như sau:
1. Bộ Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra và xử lý hồ
sơ của người nhận con nuôi theo quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 điều này
trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
2. Trường hợp người nhận con nuôi đích danh quy định
tại khoản 2 Điều 28 của Luật này, Bộ Tư pháp chuyển hồ sơ cho Sở Tư pháp nơi
người được giới thiệu làm con nuôi thường trú để trình Ủy ban nhân dân cấp tỉ
nh xem xét, quyết định.
3. Sau khi kết thúc thời hạn thông báo tìm gia
đình thay thế cho trẻ em theo quy định tại khoản 2 Điều 15 của Luật này, nếu trẻ
em không được người trong nước nhận làm con nuôi thì Bộ Tư pháp chuyển hồ sơ của
người nhận con nuôi cho Sở Tư pháp nơi trẻ em được giới thiệu làm con nuôi thường
trú để xem xét, giới thiệu trẻ em làm con nuôi theo trình tự quy định tại Điều
36 của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều này.
36. Hỏi: Căn cứ để giới
thiệu trẻ em làm con nuôi người nước ngoài được quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều
35 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về căn cứ để giới thiệu trẻ em làm con
nuôi người nước ngoài như sau:
Việc
giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước ngoài được thực hiện vì lợi ích của
trẻ em, có tính đến lợi ích của người nhận con nuôi trên cơ sở bảo đảm những
yêu cầu cơ bản sau đây:
1. Đặc điểm, sở thích, thói quen đáng lưu ý của trẻ
em;
2. Khả năng hòa nhập và phát triển của trẻ em;
3. Điều kiện kinh tế, môi trường gia đình, xã hội
và nguyện vọng của người nhận con nuôi.
37. Hỏi: Trình tự giới
thiệu trẻ em làm con nuôi người nước ngoài được quy định như thế nào?
Trả lời:
*
Điều 36 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về trình tự giới thiệu trẻ em làm
con nuôi như sau:
1. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ
sơ của người nhận con nuôi, Sở Tư pháp xem xét, giới thiệu trẻ em làm con nuôi
trên cơ sở bảo đảm các căn cứ quy định tại Điều 35 của Luật này và báo cáo Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Sở
Tư pháp trình, nếu Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đồng ý thì thông báo cho Sở Tư pháp
để làm thủ tục chuyển hồ sơ cho Bộ Tư pháp; trường hợp không đồng ý thì trả lời
bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Trước
khi Sở Tư pháp xem xét, giới thiệu trẻ em làm con nuôi nước ngoài, nếu có người
trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì người đó liên hệ với Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi trẻ em thường trú để xem xét, giải quyết; nếu việc nhận con nuôi đã hoàn
thành thì Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo Sở Tư pháp để chấm dứt việc giới thiệu
trẻ em làm con nuôi nước ngoài.
2. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được
báo cáo kết quả giới thiệu trẻ em làm con nuôi, Bộ Tư pháp kiểm tra việc giới
thiệu trẻ em làm con nuôi, nếu hợp lệ thì lập bản đánh giá việc trẻ em Việt Nam
đủ điều kiện được làm con nuôi nước ngoài và thông báo cho cơ quan có thẩm quyền
của nước nơi người nhận con nuôi thường trú.
3. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được
văn bản của cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người nhận con nuôi thường trú
thông báo về sự đồng ý của người nhận con nuôi đối với trẻ em được giới thiệu,
xác nhận trẻ em sẽ được nhập cảnh và thường trú tại nước mà trẻ em được nhận
làm con nuôi, Bộ Tư pháp thông báo cho Sở Tư pháp.
Người
nhận con nuôi không được có bất kỳ sự tiếp xúc nào với cha mẹ, người giám hộ hoặc
cơ sở nuôi dưỡng trẻ em trước khi nhận được thông báo giới thiệu trẻ em làm con
nuôi, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 28 của Luật này.
4. Trường hợp người nhận con nuôi từ chối nhận trẻ
em được giới thiệu làm con nuôi mà không có lý do chính đáng thì việc giải quyết
hồ sơ xin nhận con nuôi của người đó chấm dứt.
*
Khoản 2, khoản 3 Điều 20 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP (đã sửa đổi, bổ sung) quy định
về giới thiệu trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài như sau:
2. Sau khi giới thiệu trẻ em làm con nuôi, Sở Tư
pháp báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho ý kiến. Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh đồng ý việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi, thì trong thời hạn không quá 5
ngày làm việc kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đồng ý, Sở Tư pháp chuyển cho
Cục Con nuôi 01 bộ hồ sơ của trẻ em kèm theo văn bản đồng ý của Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh. Trường hợp không đồng ý với việc giới thiệu của Sở Tư pháp, thì Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh thông báo rõ lý do bằng văn bản để Sở Tư pháp tiến hành
giới thiệu lại. Sau 03 tháng kể từ ngày Ủy ban nhân dân tỉnh không đồng ý mà Sở
Tư pháp không giới thiệu được thì Sở Tư pháp phải gửi trả lại hồ sơ của người
nhận con nuôi cho Cục Con nuôi kèm theo văn bản nêu rõ lý do.
3. Trong khi kiểm tra kết quả giải quyết việc nuôi
con nuôi theo quy định tại khoản 2 Điều 28 và khoản 2 Điều 36 của Luật nuôi con
nuôi, Cục Con nuôi có thể lấy ý kiến của chuyên gia tâm lý, y tế, gia đình, xã
hội. Nếu trẻ em có đủ điều kiện để cho làm con nuôi ở nước ngoài, việc giải quyết
cho trẻ em làm con nuôi bảo đảm đúng trình tự, thủ tục quy định và đáp ứng lợi
ích tốt nhất của trẻ em, thì Cục Con nuôi thông báo bằng văn bản cho người nhận
con nuôi, Cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi của nước ngoài hữu quan kèm theo
báo cáo đánh giá về trẻ em đủ điều kiện cho làm con nuôi ở nước ngoài và văn bản
lấy ý kiến của cha, mẹ đẻ hoặc người giám hộ và ý kiến của trẻ em từ đủ chín tuổi
trở lên về việc đồng ý cho trẻ em làm con nuôi; trường hợp trẻ em đang sống tại
cơ sở nuôi dưỡng thì phải có văn bản lấy ý kiến của Giám đốc cơ sở nuôi dưỡng về
việc cho trẻ em làm con nuôi. Trường hợp trẻ em không đủ điều kiện để cho làm
con nuôi, việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi không bảo đảm đúng trình tự,
thủ tục quy định và không đáp ứng lợi ích tốt nhất của trẻ em, thì Cục Con nuôi
thông báo cho Sở Tư pháp.
38. Hỏi: Việc nhận đích danh
trẻ em làm con nuôi đối với trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo quy định
như thế nào?
Trả lời:
Khoản
1, khoản 2 Điều 3 Nghị định số 19/2011/NĐ- CP (đã sửa đổi, bổ sung) quy định về
trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo được nhận đích danh làm con nuôi
như sau:
1. Trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo
được nhận đích danh làm con nuôi theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 28 của
Luật nuôi con nuôi, gồm trẻ em bị sứt môi hở hàm ếch; trẻ em bị mù một hoặc cả
hai mắt; trẻ em bị câm, điếc; trẻ em bị khoèo chân, tay; trẻ em không có ngón
hoặc bàn chân, tay; trẻ em nhiễm HIV; trẻ em mắc các bệnh về tim; trẻ em không
có hậu môn hoặc bộ phận sinh dục; trẻ em mắc các bệnh về máu; trẻ em bị khuyết
tật khác hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác cần điều trị khẩn cấp hoặc cả đời.
2. Trẻ em thuộc diện quy định tại khoản 1 Điều
này, nếu được nhận làm con nuôi ở nước ngoài, thì được miễn thủ tục thông báo
tìm gia đình thay thế theo quy định tại điểm c, điểm d khoản 2 Điều 15 và thủ tục
giới thiệu trẻ em làm con nuôi theo quy định tại khoản 1 Điều 36 của Luật Nuôi
con nuôi.
39. Hỏi: Thành phần Hồ sơ
của người nhận con nuôi đích danh được quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều
13 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP (đã sửa đổi, bổ sung) quy định về thành phần hồ
sơ của người nhận con nuôi đích danh như sau:
Khi
nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi, người nhận con nuôi đích danh theo quy định tại khoản
2 Điều 28 của Luật Nuôi con nuôi phải nộp 01 bộ hồ sơ của người được nhận làm
con nuôi và tùy từng trường hợp còn phải có giấy tờ tương ứng sau đây:
1. Bản sao giấy chứng nhận kết hôn của cha dượng
hoặc mẹ kế với mẹ đẻ hoặc cha đẻ của người được nhận làm con nuôi.
2. Giấy
tờ, tài liệu để chứng minh người nhận con nuôi là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của
người được nhận làm con nuôi.
3. Bản sao quyết định của cơ quan có thẩm quyền Việt
Nam cho người đó nhận con nuôi Việt Nam và giấy tờ, tài liệu để chứng minh người
con nuôi đó với trẻ em được nhận làm con nuôi là anh, chị em ruột.
4. Giấy tờ, tài liệu để chứng minh trẻ em được nhận
làm con nuôi là trẻ em thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
3 của Nghị định này.
5. Giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân hoặc Công an
cấp xã, nơi cư trú tại Việt Nam và giấy tờ, tài liệu khác để chứng minh người
nhận con nuôi là người nước ngoài đang làm việc, học tập liên tục tại Việt Nam
trong thời gian ít nhất là 01 năm, tính đến ngày nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi.
II. MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ
40. Hỏi: Bác trai tôi năm nay ngoài 60 tuổi muốn nhận con
nuôi. Xin hỏi độ tuổi tối đa của người nhận con nuôi là bao nhiêu? Người cao
tuổi có được nhận con nuôi không?
Trả lời:
Hiện nay, pháp luật về nuôi con nuôi
không quy định độ tuổi tối đa của người nhận con nuôi. Tuy nhiên, theo quy định
tại Điều 2 của Luật Người cao tuổi thì, công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên
là người cao tuổi. Người cao tuổi phải được đảm bảo các nhu cầu về chăm sóc sức
khỏe, được gia đình chăm sóc, phụng dưỡng. Do đó, việc người cao tuổi nhận con
nuôi, đặc biệt là trẻ em nhỏ tuổi để chăm sóc, nuôi dưỡng là không phù hợp,
không bảo đảm cho việc cha, mẹ nuôi chăm sóc, nuôi dưỡng con nuôi đến độ tuổi
trưởng thành. Hơn nữa, trên thực tế nếu khoảng cách độ tuổi giữa cha, mẹ nuôi
và con nuôi quá lớn có thể ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của trẻ em.
Nếu yêu cầu đăng ký việc nuôi con
nuôi không bảo đảm mục đích của việc nuôi con nuôi và không
vì lợi ích tốt nhất của trẻ em theo quy định tại Điều 2 của Luật Nuôi con nuôi
thì UBND cấp xã có thể từ chối đăng ký việc nuôi con nuôi.
41. Hỏi: Người chồng hoặc người vợ hiện tại có thể nhận con
nuôi của riêng vợ hoặc chồng đã nhận trước khi kết hôn làm con nuôi hay không?
Nếu được, trình tự thủ tục giải quyết như thế nào?
Trả lời:
Trước khi kết hôn, người vợ hoặc
người chồng hiện tại đã có một người con nuôi riêng, trong trường hợp này bên
chồng hoặc bên vợ còn lại có thể nhận con nuôi riêng của vợ hoặc chồng làm con
nuôi. Trình tự thủ tục được vận dụng thực hiện như đối với trường hợp cha
dượng/mẹ kế nhận con riêng của vợ/chồng làm con nuôi.
Sau khi tiến hành đăng ký việc nuôi
con nuôi, nếu có yêu cầu, công chức tư pháp - hộ tịch thay đổi họ, tên hoặc
thay đổi phần khai về cha hoặc mẹ trong giấy khai sinh của con nuôi theo quy
định của pháp luật về hộ tịch.
42. Hỏi: Tôi là bác ruột muốn nhận cháu làm con nuôi thì có
được miễn điều kiện về khoảng cách độ tuổi giữa người nhận con nuôi và con nuôi
như theo quy định của pháp luật không?
Trả lời:
Theo phong tục tập quán và truyền
thống văn hóa của người Việt Nam, người chồng hoặc người vợ của cậu, cô, dì,
chú, bác ruột cũng được coi là chú, cậu, cô, dì hoặc bác của trẻ em được nhận
làm con nuôi. Để tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường gia đình
gốc theo thứ tự ưu tiên lựa chọn gia đình thay thế, khoản 3 Điều 14 của Luật
Nuôi con nuôi có thể được vận dụng để áp dụng đối với việc miễn điều kiện về
khoảng cách độ tuổi trong trường hợp nêu trên.
43. Hỏi: Gia đình tôi đã có 2 con, xin hỏi có được nhận thêm
trẻ em làm con nuôi không đẻ?
Trả lời: Pháp luật về nuôi con nuôi không cấm
người đã có con đẻ nhận con nuôi, nếu người này đáp ứng đủ điều kiện nuôi con
nuôi. Do đó, sau khi kiểm tra các điều kiện về nuôi con nuôi, đánh giá điều
kiện kinh tế, hoàn cảnh gia đình, chỗ ở của người nhận con nuôi, nếu công chức
tư pháp - hộ tịch thấy rằng người nhận con nuôi có đủ điều kiện để chăm sóc,
nuôi dưỡng thêm một người con nữa thì có thể tiến hành đăng ký việc nuôi con
nuôi.
Tuy nhiên, nếu có cơ sở để cho rằng
các bên lợi dụng việc cho nhận con nuôi nhằm vi phạm pháp luật về dân số như
việc nhận con đẻ làm con nuôi thì thuộc hành vi bị cấm theo Điều 13 của Luật
Nuôi con nuôi.
Trường hợp trẻ em là cháu ruột của
người nhận con nuôi nếu có cơ sở để cho rằng các bên lợi dụng việc cho nhận con
nuôi con nuôi nhằm hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước thì sẽ bị cấm
theo Điều 13 của Luật Nuôi con nuôi, ví dụ như để hưởng chính sách của thương
binh, bệnh binh hoặc người có công với cách mạng (con nuôi sẽ được cộng điểm ưu
tiên khi thi đại học…). Trong trường hợp đó, công chức tư pháp - hộ tịch cần tư
vấn, giải thích, thuyết phục người nhận con nuôi về hệ quả chấm dứt việc nuôi
con nuôi nếu vi phạm Điều 13 của Luật Nuôi con nuôi, từ chối đăng ký việc nuôi
con nuôi.
44. Hỏi: Tôi là người đứng đầu một cơ sở TGXH, tôi có thể
nhận tất cả hoặc nhận một số lượng lớn trẻ em đang được chăm sóc, nuôi dưỡng ở
cơ sở làm con nuôi hay không?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 2 của Luật
Nuôi con nuôi, việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ, con lâu dài bền
vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con
nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình. Việc người
đứng đầu một cơ sở TGXH xin nhận tất cả hoặc một số lượng lớn trẻ em hiện đang
được chăm sóc nuôi dưỡng tại cơ sở làm con nuôi là không phù hợp, không bảo đảm
mục đích nuôi con nuôi. Trên thực tế, trẻ em vẫn sống tập trung ở cơ sở TGXH
chứ không phải sống trong môi trường gia đình.
Ngoài ra, theo khoản 1 Điều 24 của
Luật Nuôi con nuôi, nếu việc nuôi con nuôi được thực hiện theo đúng quy định
pháp luật thì kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi có
đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ và con theo quy định của pháp luật về
hôn nhân và gia đình, pháp luật về dân sự và các quy định khác của pháp luật có
liên quan. Như vậy, một người không thể bảo đảm quyền và thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ pháp lý cho tất cả những trẻ em được làm con nuôi này.
Việc công chức tư pháp - hộ tịch từ
chối tiếp nhận hồ sơ đăng ký nuôi con nuôi đối với một người có yêu cầu nhận
tất cả hoặc một số lượng lớn trẻ em hiện đang được chăm sóc, nuôi dưỡng tập
trung làm con nuôi là phù hợp.
45. Hỏi: Tôi là công chức tư pháp – Hộ tịch tại UBND xã,
hiện nay có 02 gia đình cùng muốn nhận 01 cháu bé có hoàn cảnh đặc biệt làm con
nuôi. Vậy tôi phải làm thế nào ?
Trả lời:
Trường hợp đồng thời có nhiều người
cùng hàng ưu tiên nhận trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt làm con nuôi thì xem xét,
giải quyết cho người nào có điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi
tốt hơn. Tuy nhiên, để đánh giá người nào có điều kiện tốt hơn thì công chức tư
pháp - hộ tịch phải kết hợp nhiều yếu tố như:
- Độ tuổi của người nhận con nuôi.
Nếu người nhận con nuôi ở độ tuổi cao (ví dụ từ 60 tuổi trở lên) thì không phù
hợp với việc nhận một trẻ em sơ sinh làm con nuôi.
- Điều kiện kinh tế: người nhận con
nuôi có việc làm ổn định, thu nhập ổn định sẽ có điều kiện nuôi dưỡng tốt hơn
một cặp vợ chồng có công việc không ổn định, mức thu nhập không thường xuyên
hoặc không có tài sản nào chứng minh bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo
dục con nuôi.
- Điều kiện sức khỏe của người nhận
con nuôi.
- Đạo đức, lối sống lành mạnh của
người nhận con nuôi; sự ủng hộ của các thành viên trong gia đình người nhận con
nuôi; kinh nghiệm nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em...
Trường hợp trẻ em đã được một trong
số những gia đình nêu trên tạm thời chăm sóc nuôi dưỡng thì cũng là tiêu chí
xem xét ưu tiên cho gia đình hiện đang tạm thời chăm sóc nuôi dưỡng vì trẻ em ở
độ tuổi sơ sinh đã quen với sự chăm sóc của người đó nếu người này có nguyện vọng
và đủ điều kiện nuôi con nuôi.
Công chức tư pháp - hộ tịch có thể
tham mưu cho Chủ tịch UBND cấp xã thành lập hội đồng xem xét, đánh giá điều
kiện nuôi con nuôi trong trường hợp có ít nhất hai gia đình
cùng đồng thời muốn nhận 01 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt làm con nuôi.
46. Hỏi: Người nhận con nuôi và trẻ em được nhận làm con
nuôi hiện nay đều đang tạm trú ở nước ngoài, vậy Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
thường trú của người nhận con nuôi hoặc của trẻ em được nhận làm con nuôi có
thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi không?
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 9 của
Luật Nuôi con nuôi, Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở
nước ngoài đăng ký việc nuôi con nuôi của công dân Việt Nam tạm trú ở nước
ngoài. Trong trường hợp này, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người nhận con nuôi và
người được nhận làm con nuôi có hộ khẩu thường trú không có thẩm quyền đăng ký
việc nuôi con nuôi.
47. Hỏi: Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền đăng ký việc
nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trong đó một bên đang định cư ở
nước ngoài không?
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 28
của Luật Nuôi con nuôi, người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận trẻ em Việt
Nam làm con nuôi thuộc trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Do đó, cơ
quan có thẩm quyền quyết định việc nuôi con nuôi là UBND cấp tỉnh nơi thường
trú của người được nhận làm con nuôi.
Trên thực tế đã xảy ra một số trường
hợp đăng ký sai thẩm quyền do người nhận con nuôi xuất trình sổ hộ khẩu còn ghi
họ, tên của người nhận con nuôi, giấy chứng minh nhân dân do cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam cấp, mà không thông báo trung thực việc họ đang định cư ở
nước ngoài. Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài nơi người nhận con nuôi định
cư sẽ không công nhận quyết định nuôi con nuôi được ban hành sai thẩm quyền.
Để tránh việc đăng ký sai thẩm
quyền, UBND cấp xã khi tiếp nhận hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi phải tiến
hành kiểm tra, xác minh kỹ lưỡng hồ sơ, tìm hiểu thông tin về người nhận con
nuôi và người được nhận làm con nuôi. Trường hợp có thông tin về việc người
nhận con nuôi sinh sống, làm việc lâu dài ở nước ngoài nhưng vẫn còn đăng ký hộ
khẩu thường trú trong nước thì không được coi là công dân Việt Nam thường trú
trong nước.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 12
của Luật Cư trú, nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn
định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú. Như
vậy, nếu một người chỉ đăng ký thường trú nhưng không thường xuyên sinh sống
tại nơi đăng ký thường trú mà sinh sống thường xuyên ở nước ngoài thì không
được coi là công dân Việt Nam thường trú trong nước.
48. Hỏi: Người nhận con nuôi chưa đăng ký thường trú ở địa
phương trong khi họ đã tiến hành thủ tục xóa đăng ký thường trú ở nơi ở cũ, có
yêu cầu nhận cháu ruột làm con nuôi thì có thể nộp hồ sơ đăng ký việc nuôi con
nuôi ở đâu ?
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 của
Nghị định số 19/2011/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung, trong trường hợp cha dượng
hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi; cậu, cô, dì, chú, bác
ruột nhận cháu làm con nuôi thì UBND cấp xã nơi cư trú của người nhận con nuôi
hoặc của người được nhận làm con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. Nơi
cư trú là nơi thường trú, nơi tạm trú hoặc nơi sinh sống thực tế. Nếu đã xóa
đăng ký thường trú thì xem xét giải quyết theo nơi tạm trú đã được đăng ký. Nếu
không có nơi tạm trú thì xem xét giải quyết theo nơi sinh sống thực tế.
49. Hỏi: Người nhận con nuôi có hộ khẩu thường trú tại một
nơi nhưng lại thường xuyên sinh sống, làm ăn tại nơi đăng ký tạm trú. Vậy UBND
cấp xã nơi người nhận con nuôi tạm trú có thể tiến hành xác minh điều kiện gia
đình, nơi ở của người nhận con nuôi không?
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 2, 3 Điều 7
của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Nuôi con nuôi, thẩm quyền xác nhận về hoàn
cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế của người nhận con nuôi do
UBND cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú thực hiện. Do đó, trong trường
hợp này, UBND cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú có thể phối hợp cùng
UBND cấp xã nơi người nhận con nuôi đăng ký tạm trú để tiến hành đánh giá về
hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế của người nhận con
nuôi.
50. Hỏi: Ở xã tôi có trường hợp Cha, mẹ đẻ của trẻ em được
cho làm con nuôi hiện đang chấp hành hình phạt tù. Vậy Tôi - Công chức tư pháp
- hộ tịch có phải tiến hành thủ tục lấy ý kiến đồng ý về việc cho con đẻ làm
con nuôi không, hay chỉ cần lấy ý kiến của ông/bà nội (ngoại) của trẻ để thay
thế?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 25 và Điều 39
của Bộ Luật Dân sự 2015, việc đồng ý cho con làm con nuôi là quyền của cha mẹ
đẻ và là quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình, gắn liền với cá nhân và
không thể chuyển giao cho người khác được.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 21
của Luật Nuôi con nuôi, việc nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha, mẹ đẻ
của người được nhận làm con nuôi; nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất
năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của
người còn lại; nếu cả cha, mẹ đẻ đều đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc
không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ. Như vậy, trường
hợp cha đẻ/mẹ đẻ hiện đang chấp hành án phạt tù không thuộc những trường hợp
nêu trên. Do đó, công chức tư pháp - hộ tịch sẽ phải phối hợp với Ban quản lý
trại giam để tiến hành lấy ý kiến đồng ý của cha đẻ/mẹ đẻ về việc cho con làm
con nuôi. Ý kiến đồng ý của ông/ bà nội (ngoại) của trẻ em không thay thế được
ý kiến đồng ý của cha đẻ/mẹ đẻ của trẻ em trong trường hợp xác định được cha
đẻ/mẹ đẻ của trẻ.