TỔNG HỢP TIẾP NHẬN VÀ TRẢ LỜI KIẾN NGHỊ CỦA CÁC BỘ, NGÀNH, ỦY BAN NHÂN DÂN CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CỦA BỘ TƯ PHÁP 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2019
LĨNH VỰC HỘ TỊCH, QUỐC TỊCH, CHỨNG THỰC
1. Đề nghị Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức các
lớp tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp địa phương, đặc biệt là công chức Tư
pháp - Hộ tịch ở cấp xã (UBND các tỉnh Hà Tĩnh, Sóc Trăng)
Trả lời:
Việc tập huấn nghiệp vụ hộ tịch được xác
định là nhiệm vụ cần thực hiện thường xuyên của cơ quản lý nhà nước về hộ tịch
ở cả Trung ương (Bộ Tư pháp) và địa phương (UBND các cấp).
Do đó, ở
Trung ương, Bộ Tư pháp đã xây dựng Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch tại
cấp huyện, cấp xã và các Trường Trung cấp luật; cử báo cáo viên trực tiếp tham
gia giảng dạy các lớp tập huấn nghiệp vụ tại cơ sở.
Về phía các địa phương, đề nghị Ủy ban
nhân dân các tỉnh quan tâm, chỉ đạo Sở Tư pháp chủ động xây dựng kế hoạch tập
huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, bố trí đội ngũ báo cáo viên có đủ năng lực, phối hợp
với Bộ Tư pháp tổ chức bồi dưỡng và cấp chứng chỉ cho công chức làm công tác hộ
tịch trên địa bàn theo đúng quy định của Luật hộ tịch.
2. Trong
các văn bản về chứng thực bản dịch chưa có quy định về lời chứng bằng tiếng
nước ngoài, nhất là đối với bản dịch từ tiếng Việt ra tiếng nước ngoài. Vì vậy,
để tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cán nhân trong quá trình sử dụng bản
dịch, đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, tham mưu cho Chính phủ quy định bổ sung về
lời chứng bằng tiếng nước ngoài đối với việc chứng thực bản dịch từ tiếng Việt
sang tiếng nước ngoài (UBND tỉnh Hải Dương)
Trả lời:
Khoản 1 Điều 69 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định: “Ngôn
ngữ sử dụng trong văn bản là tiếng Việt, chính xác, phổ thông. Không
dùng từ ngữ địa phương, từ ngữ cổ và từ ngữ thông tục”.
Như vậy, về nguyên tắc, các nội dung được
quy định trong văn bản quy phạm pháp luật phải bằng tiếng Việt. Do đó, việc chỉ
quy định mẫu lời chứng bằng tiếng Việt là phù hợp với quy định của Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật.
Mặt khác, hiện nay, nhu cầu dịch từ tiếng
Việt sang tiếng nước ngoài là rất đa dạng, từ những thứ tiếng phổ thông như
Anh, Pháp, Trung Quốc, Nga, Đức… hay đến những thứ tiếng ít phổ biến như Thụy
Điển, Ả Rập, Lào, Campuchia… Do đó, cơ quan ban hành không thể định lượng hết để
quy định mẫu lời chứng bằng tiếng nước ngoài.
3. Đề nghị Bộ Tư pháp có hướng dẫn đối với các
khó khăn, vướng mắc trong lĩnh vực chứng thực như sửa đổi Điều 7 của Thông tư
số 20/2015/TT-BTP theo hướng: đối với trường hợp bản chính có nhiều trang thì
người yêu cầu chứng thực bản sao từ bản chính chỉ chụp những trang có nhu cầu
sử dụng; đề xuất miễn giảm phí chứng thực đối với các đối tượng thuộc khoản 1
Điều 10 Luật phí và lệ phí năm 2015; về thời hạn lưu trữ và tiêu hủy đối với
các hồ sơ chứng thực chữ ký
quy định tại Khoản 2, Điều 14 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP
ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ
bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch (UBND
Tp Hồ Chí Minh)
Trả lời:
-
Về việc sửa đổi Điều 7 Thông tư số 20/2015/TT-BTP theo hướng: đối với trường hợp
bản chính có nhiều trang thì người yêu cầu chứng thực bản sao từ bản chính chỉ
chụp những trang có nhu cầu sử dụng
Khoản 6 Điều 2 Nghị định số
23/2015/NĐ-CP quy định: “Bản sao là bản
chụp từ bản chính hoặc bản đánh máy có nội dung đầy đủ, chính xác như nội dung
ghi trong sổ gốc”.
Khoản 2 Điều 3 Nghị định số
23/2015/NĐ-CP quy định: “Bản sao được chứng
thực từ bản chính theo quy định tại Nghị định này có giá trị sử dụng thay cho bản
chính đã dùng để đối chiếu chứng thực trong các giao dịch, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác”.
Như vậy, bản sao phải bảo đảm đầy đủ,
chính xác như bản chính thì mới có giá trị sử dụng thay thế bản chính. Do đó, nếu
chỉ chứng thực những trang mà người có nhu cầu sử dụng yêu cầu thì sẽ không bảo
đảm được giá trị sử dụng thay thế cho bản chính.
Ngoài ra, nếu chỉ chứng thực những
trang mà người có nhu cầu sử dụng yêu cầu thì sẽ không thể xác định được chính
xác những bản chính đó có thuộc trường hợp không được chứng thực bản sao từ bản
chính hay không.
- Về đề xuất miễn giảm phí chứng thực đối với
các đối tượng thuộc khoản 1 Điều 10 Luật phí và lệ phí năm 2015
Liên quan đến kiến nghị này, Bộ Tư pháp
đã có Công văn số 2849/BTP-HTQTCT ngày 14/8/2017 trao đổi với Bộ Tài chính theo
hướng đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu sửa đổi Thông tư số 226/2016/TT-BTC để bổ
sung các đối tượng được miễn phí là hộ nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật,
người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện
kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn… (bao gồm cả phí chứng thực bản sao, chứng thực
chữ ký, chứng thực hợp đồng, giao dịch). Việc miễn phí chứng thực đối với các đối
tượng này vừa bảo đảm được sự thống nhất trong hệ thống pháp luật, đồng thời thể
hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta.
- Về
thời hạn lưu trữ và tiêu hủy đối với các hồ sơ chứng thực chữ ký quy định tại
Khoản 2, Điều 14 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp
bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng
thực hợp đồng, giao dịch
Do kiến nghị không nêu rõ khó khăn, vướng
mắc liên quan đến Khoản 2 Điều 14 nên Bộ Tư pháp không có căn cứ để trả lời.
4. Về công
tác hộ tịch: Khoản 1 Điều
30 Luật Hộ tịch quy định: “Trong thời
hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật liên
quan đến thay đổi hộ tịch của cá nhân…, Tòa án nhân dân, ... có trách nhiệm
thông báo bằng văn bản kèm theo trích lục bản án, bản sao quyết định đến Ủy ban
nhân dân nơi đã đăng ký hộ tịch của cá nhân để ghi vào Sổ hộ tịch…”
Điều 31 Luật hộ tịch quy định: “Ngay
sau khi nhận được thông báo theo quy định tại Điều 30 của Luật này, công chức
tư pháp - hộ tịch ghi nội dung thay đổi vào Sổ hộ tịch theo bản án, quyết định
của Tòa án nhân dân,…”.
Tuy nhiên, hiện nay các biểu mẫu (bản án, quyết định) trong tố tụng dân
sự/giải quyết việc dân sự của ngành Tòa án liên quan đến “thay đổi hộ tịch của cá nhân” theo
quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Hộ tịch đều không thể hiện thông tin về đăng
ký hộ tịch (thời điểm đăng ký, số giấy tờ hộ tịch…), dẫn đến tình trạng các cơ
quan đăng ký hộ tịch không có cơ sở để ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch
của cá nhân; hoặc để thực hiện được việc ghi vào Sổ, cơ quan đăng ký hộ tịch
phải liên hệ với Tòa án nhân dân hoặc người có thông tin thay đổi để được cung
cấp thêm thông tin/tài liệu làm cơ sở ghi chú.
Ví dụ: Mẫu Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và
sự thỏa thuận của các đương sự Mẫu số 31-VDS (Ban hành kèm theo Nghị quyết số
04/2018/NQ-HĐTP ngày 09 tháng 8 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao)
Đề nghị Bộ Tư pháp có ý kiến với Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao tháo gỡ vướng mắc trên để cơ quan đăng ký hộ tịch có cơ sở ghi chú vào sổ
hộ tịch theo quy định
(UBND tỉnh Khánh Hòa)
Trả lời:
Về vấn đề này, Bộ Tư
pháp sẽ tổng hợp, trao đổi với Tòa án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, để thuận lợi
cho cơ quan đăng ký hộ tịch thực hiện ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch
của cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đề nghị
Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo Sở Tư pháp chủ động trao đổi, phối hợp với Tòa án
nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện có cơ chế cung cấp thông tin theo đúng
quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật hộ tịch làm cơ sở thực hiện ghi chú.
5. Đề nghị Bộ Tư pháp xem xét, trình Chính phủ
cho phép nhập quốc tịch Việt nam đối với 294 trường hợp di cư tự do khu vực
biên giới Việt Nam – Lào trên địa bàn tình sơn La có đủ điều kiện nhập quốc
tịch Việt Nam theo Đề án thực hiện “Thỏa thuận giải quyết vấn đề người di cư tự
do, kết hôn không giá thú trong vùng biên giới Việt Nam - Lào đến năm 2019”
(UBND tỉnh Sơn La)
Trả lời:
Trên
cơ sở đề xuất của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La tại Công văn số 1976/UBND-NC ngày
15/6/2019, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ ký Tờ
trình trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam đối
với 294 trường hợp hợp di cư tự do và kết hôn không giá thú hiện cư trú trên
địa bàn tỉnh Sơn La. Ngay sau khi có Quyết định của Chủ tịch nước, Bộ Tư pháp
sẽ thông báo đến Uỷ ban nhân dân tỉnh.
6. Theo quy định của Luật Hộ tịch, người có
thẩm quyền ký cấp giấy tờ hội tịch đối với các việc đăng ký hộ tịch thuộc thẩm
quyền của Uỷ ban nhân dân cấp huyện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Tuy nhiên, tại Khoản 6 Điều 29 Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy
định về một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện
như sau: “… ủy quyền cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện hoặc người đứng đầu
cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
trong phạm vi thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện”.
Để đảm bảo thời hạn giải quyết hồ sơ đối với các thủ tục hành chính có
quy định thời gian giải quyết trong ngày (khai sinh, khai tử, cấp bản sao trích
lục hộ tịch) là rất khó khăn. Đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu có văn bản hướng
dẫn địa phương cho phép Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ủy quyền cho Trưởng
Phòng Tư pháp cấp huyện ký giấy tờ, bản sao trích lục hộ tịch để thực hiện
thống nhất trong toàn quốc (UBND tỉnh Sơn La)
Trả lời:
Việc ủy quyền của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện cho người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nhất định được thực hiện theo quy định tại khoản
6 Điều 29 Luật tổ chức chính quyền địa phương, theo đó, Chủ tịch UBND cấp huyện
“...ủy quyền cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện hoặc người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong phạm vi thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện”.
Tuy nhiên, liên quan đến việc ủy
quyền, khoản 1 Điều 14 Luật tổ chức chính quyền địa phương quy định: “Trong trường hợp cần thiết, cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên có thể ủy quyền bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp
dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong khoảng thời gian xác
định kèm theo các điều kiện cụ thể”.
Như vậy, Luật tổ chức chính quyền địa phương không quy
định hạn chế việc ủy quyền, tuy nhiên, việc ủy quyền chỉ thực hiện trong một
khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể. Việc giao cho Trưởng
phòng Tư pháp ký cấp giấy tờ hộ tịch là công việc mang tính chất thường xuyên,
liên tục, không đúng với việc ủy quyền,
không phù hợp với khoản 1 Điều 14 Luật tổ chức chính quyền địa phương.
7. Đề nghị Bộ Tư pháp tham mưu Chính phủ sớm
phê duyệt cho Trà Vinh được tham gia Tiểu đề án 2 của Bộ Tư pháp về “Giải quyết
các vấn đề quốc tịch, hộ tịch, hộ khẩu và giấy tờ tùy thân khác cho người di cư
tự do từ Campuchia về nước” để Sở Tư pháp tham mưu UBND tỉnh kịp thời giải
quyết khó khăn của địa phương (UBND tỉnh Trà Vinh)
Trả lời:
Ngày 28/12/2018, Bộ Tư pháp đã có Báo
cáo số 591/BTP-HTQTCT-m báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình triển khai
Tiểu Đề án 2. Trong đó có đề xuất với Thủ tướng Chính phủ cho phép một số tỉnh
không phải là tỉnh biên giới (trong đó có Trà Vinh), nhưng có đông người di cư
tự do từ Campuchia về cư trú, được áp dụng cơ chế của Tiểu Đề án 2 để giải
quyết vấn đề quốc tịch, hộ tịch, hộ khẩu, đặc biệt là cấp Thẻ thường trú. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại Thủ tướng Chính phủ
chưa cho ý kiến về vấn đề này.
8. Đề nghị Bộ Tư pháp khi tham gia xây dựng Luật sửa đổi
các Luật như: Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật Đất đai, Luật Nhà ở….
và sửa đổi bổ sung Nghị định số 29/2015/NĐ-CP về công chứng, Nghị định số
23/2015/NĐ-CP về chứng thực hết sức quan tâm đến tính đồng bộ giữa các văn bản
quy phạm pháp luật này gắn với các chủ trương, chính sách khác. Riêng vấn đề
nhiệm vụ, thẩm quyền chứng thực hợp đồng giao dịch của Ủy ban nhân dân cấp
huyện, cấp xã nên sớm xem xét đưa vào chương trình xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật thời gian sớm nhất để kịp thời đáp ứng, phù hợp với tiến trình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới (STP Bình Phước)
Trả lời:
Đối
với kiến nghị này, Bộ Tư pháp sẽ xem xét để phối hợp với các cơ quan có liên
quan trong quá trình xây dựng văn bản.
9. Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp chặt
chẽ với các cơ quan Tư pháp TW: Tòa án, Viện kiểm
sát, Công an,... tăng cường chỉ đạo
theo ngành dọc công tác phối hợp trong việc
cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông tin: bản án, quyết định,… phục vụ việc cung
cấp, chia sẻ thông tin về ly hôn để thực hiện ghi chú ly hôn, xác nhận tình
trạng hôn nhân (UBND Tp Hà Nội)
Trả lời:
Về trách nhiệm thông báo khi có sự thay đổi hộ
tịch, khoản 1 Điều 30 Luật hộ tịch đã quy định rõ: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật liên quan đến thay đổi hộ tịch của cá nhân theo quy định tại
khoản 2 Điều 3 của Luật này, Tòa án nhân dân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có
trách nhiệm thông báo bằng văn bản kèm theo trích lục bản án, bản sao quyết
định đến Ủy ban nhân dân nơi đã đăng ký hộ tịch của cá nhân để ghi vào Sổ hộ
tịch; trường hợp nơi đăng ký hộ tịch là Cơ quan đại diện thì thông báo cho Bộ
Ngoại giao để chuyển đến Cơ quan đại diện ghi vào Sổ hộ tịch”.
Do đó,
tại các địa phương mà Tòa án nhân dân không thực hiện việc gửi thông báo cho Ủy
ban nhân dân theo quy định nêu trên thì đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương chỉ đạo Sở Tư pháp tập hợp, báo cáo về Bộ Tư pháp
(Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực) để Bộ Tư pháp có văn bản trao đổi với Tòa
án nhân dân tối cao.
LĨNH
VỰC LÝ LỊCH TƯ PHÁP
1. Đề nghị Bộ Tư pháp
cho phép tỉnh Đồng Nai thí điểm cấp phiếu lý lịch tư pháp điện tử (song song
với cấp Phiếu lý lịch tư pháp bản giấy như hiện nay) cho các đối tượng có nhu
sử dụng phiếu lý lịch tư pháp điện tử theo Công văn số 8822/UBND-HCC ngày
21/8/2018 của UBND tỉnh Đồng Nai (UBND tỉnh Đồng Nai)
Trả lời:
Theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp (LLTP) và các văn bản hướng dẫn thi
hành, cụ thể tại khoản 1 Điều 4 Thông tư số 13/2011/TT-BTP ngày 27/6/2011 của
Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành và hướng dẫn sử dụng biểu mẫu và mẫu
LLTP, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp sử dụng giấy in màu có
hoa văn do Bộ Tư pháp phát hành để in nội dung Phiếu LLTP cấp cho người có yêu
cầu. Vì vậy theo quy định hiện nay, chỉ có Phiếu LLTP bằng văn bản giấy mới có
giá trị pháp lý, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định giá trị pháp
lý, trình tự, thủ tục cấp Phiếu LLTP điện tử. Do đó, việc UBND tỉnh Đồng Nai đề nghị thực hiện thí điểm việc cấp
Phiếu LLTP điện tử trên địa bàn là không có cơ sở pháp lý để thực hiện.
2. Đề nghị Bộ Tư pháp trao đổi, thống nhất với
Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an đề nghị Tổng cục Thi hành án dân sự quan
tâm hơn nữa trong việc cung cấp thông tin theo đề nghị của Sở Tư pháp đảm bảo
việc cấp Phiếu Lý lịch tư pháp cho công dân (UBND tỉnh Hà Nam)
- Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Tư pháp TW: Tòa án, Viện kiểm sát, Công an,... tăng cường chỉ đạo theo ngành dọc công tác phối hợp trong việc cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông
tin: bản án, quyết định,… phục vụ việc xây dựng CSDL lý lịch tư pháp, việc xóa
án tích đương nhiên cho công dân (UBND Tp Hà Nội)
- Đề nghị Bộ Tư pháp sớm tham mưu Chính phủ ban hành quy chế phối hợp
và tổ chức ký kết quy chế phối hợp giữa Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao đối với việc xác minh
và trả lời kết quả xác minh thông tin về bản án hoặc người bị kết án đã chấp
hành đầy đủ quyết định của Tòa án trong bản án (như chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, án phí, trách
nhiệm dân sự cũng như thông tin người đó có phạm tội mới trong thời hạn quy
định để đương nhiên được xóa án tích không). Đặc biệt đối với các bản án đã bị mờ không
đọc được, không còn lưu trữ để cơ quan Tư pháp thực hiện xóa án tích cho công
dân theo quy định (STP Bà Rịa-
Vũng Tàu)
- Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với các Bộ,
ngành Trung ương chỉ dạo các cơ quan Ngành dọc cung cấp đầy đủ thông tin án
tích còn tồn đọng hoặc có giải pháp xây dựng Đề án giải quyết thông tin án tích
còn tồn đọng để phục vụ kịp thời công tác tra cứu, giải quyết thủ tục hành
chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp (UBND
tỉnh Sơn La)
Trả lời:
Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành
luật đã quy định cụ thể nhiệm vụ, trách nhiệm của các cơ quan (công an, tòa án,
viện kiểm sát, thi hành án) trong việc cung cấp thông tin LLTP về án tích cho
cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP (Trung tâm LLTP quốc gia và các Sở Tư pháp)
để xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu LLTP; đồng thời cũng quy định rõ
những loại thông tin LLTP về án tích phải cung cấp cho cơ quan quản lý cơ sở dữ
liệu LLTP (như: trích lục bản án, các quyết định thi hành, giấy chứng nhận liên
quan đến việc thi hành bản án của người bị kết án...). Đặc biệt, Thông tư liên
tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 liên tịch Bộ Tư
pháp, Tòa án NDTC, Viện Kiểm sát NDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác
minh, trao đổi, cung cấp thông tin LLTP tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan có liên quan ở Trung ương và giữa các cơ quan ở địa phương (Sở Tư pháp,
Công an, Tòa án, Viện kiểm sát tỉnh/thành phố). Ngoài ra, triển khai công tác phối
hợp giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an tại Thông báo kết luận số 02/TB-BCA-BTP ngày
23/02/2017 của Bộ trưởng Bộ Công an và Bộ trưởng Bộ Tư pháp về công tác phối
hợp năm 2017 và các năm tiếp theo, Trung tâm LLTP quốc gia phối hợp với Cục Hồ
sơ nghiệp vụ cảnh sát (C53), Bộ Công an ký Quy chế số 02/QCPH-TTLLTPQG-C53 phối
hợp tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu LLTP, có hiệu lực từ ngày
01/01/2019.
Như vậy, Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn thi hành cơ
bản đã quy định đầy đủ trách nhiệm của các Bộ, ngành, các cơ quan liên quan
trong việc cung cấp thông tin LLTP về án tích cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu
LLTP nói chung và Sở Tư pháp tỉnh/thành phố nói riêng.
Tuy
nhiên, để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình cung cấp thông tin
LLTP về án tích của các cơ quan liên quan như kiến nghị nêu trên, về phía Bộ Tư
pháp sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng để chỉ đạo các cơ quan liên quan
thuộc Bộ, ngành mình triển khai nghiêm túc, hiệu quả các quy định của pháp luật
về LLTP. Mặt khác, đề nghị UBND tỉnh/thành phố tiếp tục chỉ đạo đối với cơ quan
Công an và đề nghị cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát tại địa phương thực hiện tốt
hơn nữa các quy định của pháp luật về LLTP, bảo đảm các cơ quan này cung cấp
thông tin LLTP về án tích đầy đủ cho Sở Tư pháp để xây dựng Cơ sở dữ liệu LLTP
và cấp Phiếu LLTP.
3. Đề nghị Bộ Tư pháp chỉ đạo Trung tâm Lý lịch
tư pháp quốc gia có các giải pháp nhằm hạn chế việc trễ hẹn khi tra cứu, xác
minh thông tin để cấp Phiếu Lý lịch tư pháp đảm bảo thống nhất về thời gian
giải quyết theo Quy chế, bộ thủ tục hành chính trong lĩnh vực lý lịch tư pháp
do Bộ Tư pháp ban hành và bộ thủ tục hành chính công bố tại các địa phương
(UBND tỉnh Hà Nam)
- Đề nghị Bộ Tư pháp (Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia) thực hiện việc
tra cứu, xác minh thông tin đảm bảo thời gian để cấp Phiếu Lý lịch tư pháp kịp
thời. Các trường hợp có án tích đã lâu đề nghị hỗ trợ địa phương xác minh để
cấp Phiếu đúng hạn cho đương sự (UBND tỉnh Sóc Trăng)
- Việc tra cứu, xác minh thông tin để
cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo Quy chế phối hợp số 02/QCPH-TTLLTPQG-C53 ngày 29
tháng 6 năm 2018 của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia - Bộ Tư pháp và Cục Hồ
sơ nghiệp vụ cảnh sách - Bộ Công an về phối hợp tra cứu, xác minh thông tin để
cấp Phiếu lý lịch tư pháp còn một số hạn chế, vướng mắc, việc trả kết quả tra
cứu của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia còn chậm
so với thời hạn quy định, ảnh hướng đến việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho công
dân (UBND tỉnh Đồng Tháp)
Trả lời:
Để giải quyết tình trạng
chậm thời hạn cấp Phiếu LLTP, trên cơ sở thống nhất giữa Lãnh đạo Bộ Tư pháp và
Lãnh đạo Bộ Công an, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Bộ Tư pháp và Cục Hồ
sơ nghiệp vụ cảnh sát (nay là Cục Hồ sơ nghiệp vụ), Bộ Công an ký Quy
chế số 02/QCPH-TTLLTPQG-C53 phối hợp tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu
LLTP (gọi tắt là Quy chế số 02) để hỗ trợ Sở Tư pháp của 63/63 tỉnh/thành phố
tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu LLTP. Theo giải pháp ứng dụng công
nghệ thông tin tại Quy chế này, Sở Tư pháp tỉnh/thành phố gửi Hồ sơ yêu cầu cấp
Phiếu LLTP đến đồng thời 3 cơ quan: Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Bộ tư
pháp - Cục Hồ sơ nghiệp vụ (V06), Bộ Công an - Phòng Hồ sơ công an tỉnh tại địa
phương (PV06) để 3 cơ quan cùng tra cứu tại Cơ sở dữ liệu của mình. Trung tâm
Lý lịch tư pháp quốc gia có trách nhiệm tích hợp kết quả của V06 và PV06 với
kết quả tra cứu của Trung tâm để trả lời Sở Tư pháp trong thời hạn 5 ngày làm
việc, những trường hợp phức tạp như đã từng bị kết án, có tiền sự… thời hạn là
09 ngày làm việc. Như vậy, khi thực hiện theo Quy chế số 02, Trung tâm LLTP
quốc gia phối hợp với V06 và PV06 trả kết quả sớm hơn với thời hạn Luật định.
Tuy nhiên, hiện nay, theo thống kê thì vẫn còn một tỷ lệ nhỏ, khoảng 2 đến 3% còn chậm so với quy
định
(trước đây tỷ lệ chậm cấp Phiếu
LLTP đến 40%, đặc biệt có tỉnh lên đến 60 - 70%). Những trường hợp trả kết quả tra cứu, xác minh trễ hạn là
những trường hợp người yêu cầu cấp Phiếu LLTP không khai trung thực về quá
trình cư trú, thay đổi thông tin nhân dân, từng bị kết án...; hoặc là những
trường hợp khi tra cứu, xác minh thấy rằng đương sự đã từng bị bắt, lập căn
cước nhưng chưa rõ kết quả xử lý của các cơ quan tố tụng.
Tuy nhiên, để giải quyết triệt
để tỷ lệ chậm này, ngày 4/7/2019, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia họp, thống
nhất với V06 những giải pháp để chấm dứt tình trạng này trong thời gian tới.
Về phía Ủy ban nhân tỉnh: Đề nghị Ủy ban nhân
tỉnh cũng có chỉ đạo quyết liệt cho Sở Tư pháp, Công an tỉnh thực hiện nghiêm túc
Quy chế số 02 trên đây, bảo đảm việc cấp Phiếu LLTP cho người dân sớm và đúng
hạn.
4. Theo
Quy chế phối hợp số 02/QC-TTLLTPQG-C53 về tra cứu, xác minh thông tin để cấp
Phiếu lý lịch tư pháp giữa Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp, V06
Bộ Công an và phòng Hồ sơ, Công an tỉnh thì tất cả các hồ sơ yêu cầu cấp phiếu
lý lịch tư pháp phải gửi đến Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, đồng thời đến
Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát, Bộ Công an và phòng hồ sơ Công an tỉnh. Việc
chuyển hồ sơ bằng văn bản điện tử đòi hỏi phải scan hồ sơ nhưng thời gian scan
mỗi hồ sơ cũng trải qua nhiều bước, mất nhiều thời gian (có file pdf, excel và
file ảnh JPEG). Trong khi đó, mỗi ngày Sở Tư pháp tiếp nhận khoảng 100 hồ sơ
yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp, số cán bộ được giao hạn chế, phải kiêm nhiệm
các việc nghiệp vụ khác nên khó khăn trong bố trí cán bộ thực hiện scan hồ sơ,
chuyển phần mềm như Quy chế đề ra.
Mặt khác, trong thời gian qua, Sở Tư pháp đã
thực hiện việc gửi một số hồ sơ theo Quy chế này cho Trung tâm lý lịch tư pháp
quốc gia nhưng thời gian trả lời kết quả chậm, ảnh hưởng đến thời hạn trả kết
quả cho công dân. Do đó, kính đề nghị Bộ Tư pháp chỉ đạo xem xét lại vấn đề này
(UBND tỉnh Hà Tĩnh)
Trả lời:
Thời gian vừa qua,
trong quá trình triển khai Quy chế số 02, theo phản ánh, kiến nghị của một số
địa phương về việc chuyển hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP bằng cách scan các thông
tin trên Phần mềm tra cứu, xác minh thông tin LLTP, Trung tâm Lý lịch tư pháp
quốc gia, Bộ Tư pháp đã hướng dẫn các địa phương giảm các giấy tờ khi chuyển hồ
sơ yêu cầu tra cứu, xác minh thông tin. Hiện nay Sở Tư pháp chỉ phải scan một
số loại giấy tờ cần thiết cho việc tra cứu, như (1) Tờ khai yêu cầu cấp Phiếu
LLTP; (2) Chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu; (3) Phiếu yêu cầu tra cứu, xác
minh thông tin lên Phần mềm tra cứu, xác minh thông tin LLTP. Do đó, hầu hết
các Sở Tư pháp tỉnh/thành đều thực hiện việc scan hồ sơ và chuyển lên Phần mềm
một cách nhanh chóng, thuận lợi. Trong đó, trung bình mỗi ngày, Sở Tư pháp
thành phố Hồ Chí Minh scan và chuyển hồ sơ lên Phần mềm từ 600 đến hơn 700 hồ
sơ, Sở Tư pháp thành phố Hà Nội từ 300 đến hơn 400 hồ sơ, nhiều tỉnh còn lại có
số lượng hồ sơ trong khoảng 100 hồ sơ…
Riêng đối với Sở Tư pháp và Công an tỉnh Hà Tĩnh chưa
thực hiện Quy chế số 02.
Vì vậy, đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh có chỉ
đạo Sở Tư pháp và Công an tỉnh thực hiện nghiêm túc Quy chế 02 đã được triển
khai theo chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tư pháp và Lãnh đạo Bộ Công an, đặc biệt, đề
nghị Sở Tư pháp chấm dứt việc trích chuyển kinh phí tra cứu, xác minh thông tin
để cấp Phiếu LLTP cho Công an tỉnh, trái với quy định tại Thông tư số
244/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu,
nộp, quản lý và sử dụng phí cung cấp thông tin LLTP.
5. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm triển khai Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp
điện tử để hỗ trợ khắc phục tình trạng tồn động thông tin lý lịch tư pháp chưa
được lập cơ sở dữ liệu tại các Sở Tư pháp (UBND Tp Hồ Chí Minh)
Đề nghị Bộ Tư pháp có giải pháp xây dựng Đề án giải quyết thông tin án
tích còn tồn đọng để phục vụ kịp thời công tác tra cứu, giải quyết thủ tục hành
chính cấp Phiếu LLTP(UBND tỉnh Sơn La)
Trả lời:
Đối với việc giải quyết thông tin án tích còn tồn
đọng, Bộ Tư pháp đang triển khai thí điểm giải pháp tự động hóa trong công tác
quản lý, vận hành Cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu LLTP, (hiện nay tỉnh Bắc Ninh
đang triển khai thí điểm giải pháp này). Giải pháp tự động hóa với các tính
năng tự động nhập dữ liệu, bảo đảm thông tin LLTP được cập nhật vào Cơ sở dữ
liệu LLTP kịp thời, chính xác Bảo đảm giải quyết triệt để tình trạng tồn đọng
thông tin LLTP. UBND thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Sơn La có thể đề nghị Bộ Tư
pháp cho thực hiện thí điểm giải pháp tự động hóa công tác quản lý, vận hành Cơ
sở dữ liệu LLTP tại địa bàn.
6. Về triển khai Quy
chế 02/QCPH-TTLLTPQG-C53 ngày 29/6/2018 của Trung tâm LLTPQG và Cục hồ sơ
nghiệp vụ cảnh sát phối hợp tra cứu xác minh thông tin LLTP để cấp Phiếu LLTP
(sau đây gọi tắt là Quy chế 02):
- Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Quy chế 02, “Giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong
công tác tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu LLTP ... là giải pháp điện tử
hóa việc chuyển Hồ sơ yêu cầu tra cứu, xác minh ... và tiếp nhận kết quả tra
cứu, xác minh có thông tin lý lịch tư pháp...”, theo đó, việc gửi hồ sơ
và nhận kết quả được thực hiện trên môi trường mạng thông qua Phần mềm Hỗ trợ
tra cứu xác minh của Trung tâm LLTPQG.
- Theo Công văn số 135/TTLLTPQG ngày 15/3/2019 của Trung
tâm LLTPQG: bảo đảm từ ngày 01/4/2019, “63/63
Sở Tư pháp trên toàn quốc thực hiện công tác tra cứu xác minh thông tin để cấp
Phiếu LLTP theo đúng quy định tại Quy chế 02”, và “PV06 không nhận hồ sơ yêu cầu tra cứu xác
minh thông tin bằng văn bản giấy từ Sở Tư pháp, việc tiếp nhận, tra cứu và trả
kết quả hoàn toàn thông qua đường truyền mạng”.
Tuy nhiên tại Khánh Hòa, từ tháng 01/2018 đến nay, Sở Tư
pháp và Phòng hồ sơ nghiệp vụ (Công an tỉnh) đã thực hiện ứng dụng giải pháp “điện tử hóa việc chuyển hồ sơ” trong
việc gửi hồ sơ và nhận kết quả xác minh hoàn toàn trên đường truyền mạng thông
qua Phần mềm Một cửa điện tử của tỉnh, chấm dứt hoàn toàn phương thức chuyển hồ sơ qua đường
công văn. Việc tổ chức triển khai thời gian qua đã đi vào ổn định, đảm bảo đúng
quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính của Chính phủ (giảm bớt
thời gian, công sức, chi phí luân chuyển hồ sơ; tỷ lệ hồ sơ trễ hẹn chỉ chiếm
0,1%).
Hiện nay, để giải quyết hồ sơ, công chức đang phải thực
hiện thao tác cập nhật xử lý trên 02 Phần mềm khác nhau:
- Phần mềm Một cửa điện tử của tỉnh: thực hiện tiếp nhận
hồ sơ, scan lưu dữ liệu TTHC đầu vào lên Phần mềm; cập nhật xử lý các bước giải
quyết TTHC theo quy trình nội bộ cho đến khi giao trả kết quả kết thúc quy
trình. Theo Phần mềm này, các cá nhân được giao thực hiện
nhiệm vụ cụ thể trong quy trình giải quyết thuộc Sở Tư pháp và Phòng hồ sơ
nghiệp vụ - Công an tỉnh phải thực hiện cập nhật sau khi hoàn thành bước xử lý.
Bên cạnh đó, người yêu cầu cấp Phiếu LLTP có thể sử dụng mã hồ sơ được cấp để
tra cứu tình trạng giải quyết hồ sơ trên Trung tâm dịch vụ hành chính công trực
tuyến của tỉnh (hồ sơ đang được giải quyết đến bước nào? Ở cơ quan nào?...).
- Phần mềm LLTP dùng chung: thực hiện nhập tiếp nhận yêu
cầu cấp Phiếu; in Phiếu yêu cầu xác minh; cập nhật kết quả tra cứu xác minh từ
các cơ quan liên quan; tổng hợp tình trạng án tích; in Phiếu LLTP.
Như vậy, nếu triển khai Quy chế 02, công chức giải quyết
TTHC sẽ phải thực hiện thao tác, cập nhật xử lý hồ sơ cùng lúc trên 03 Phần mềm
(thêm Phần mềm Hỗ trợ tra cứu xác minh của Trung tâm LLTPQG). Điều này dẫn đến
khối lượng công việc tăng lên, gây quá tải khi thực hiện nhiệm vụ, đặc biệt là
trong bối cảnh thực hiện chủ trương tinh giản biên chế, không được phép điều
động viên chức từ đơn vị sự nghiệp hỗ trợ, không được sử dụng lao động hợp đồng
làm công tác chuyên môn như hiện nay. Số lượng hồ sơ phát sinh nhiều, có xu
hướng gia tăng, trong khi đó biên chế bố trí cho công tác LLTP (bao gồm: công
tác xây dựng cơ sở dữ liệu; công tác cấp Phiếu LLTP) là 01 người.
Qua nghiên cứu đánh giá hiệu quả thực hiện cho thấy,
giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin đang thực hiện tại Khánh Hòa đã đáp ứng
mục đích, yêu cầu của Quy chế 02. Do đó, để giảm tải khối lượng công việc,
trước mắt, đề nghị Bộ Tư pháp cho phép các địa phương đã ứng dụng giải pháp “điện tử hóa việc chuyển hồ sơ” trong
việc gửi hồ sơ và nhận kết quả xác minh giữa Sở Tư pháp và
Phòng hồ sơ nghiệp vụ (thông qua Phần mềm một cửa điện tử của địa phương) tạm
thời chưa triển khai Quy chế 02 (thông qua Phần mềm của Trung tâm LLTPQG) cho
đến khi có giải pháp kỹ thuật (kết nối các Phần mềm giữa Trung ương và địa
phương) đảm bảo mục tiêu ứng dụng công nghệ thông tin nhằm giảm bớt thời gian,
công sức, nhân lực trong thực hiện nhiệm vụ (UBND tỉnh
Khánh Hòa)
Trả lời:
Quy chế số 02 được xây dựng trên cơ sở ý
kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Công an và Lãnh đạo Bộ Tư pháp, theo đúng tinh
thần tại Điều 47 Luật Lý lịch tư pháp và Điều 25 Nghị định số 111/2010/NĐ-CP,
theo đó: đối với thông tin có trước ngày 01/7/2010 sẽ tra cứu tại Cơ sở dữ liệu
của ngành Công an, đối với thông tin có sau ngày 01/7/2010 sẽ tra cứu tại Cơ sở
dữ liệu của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp. Việc chỉ tra cứu
thông tin để cấp Phiếu LLTP tại cơ quan Công an là không đúng quy định. Ngoài
ra, theo báo cáo sơ kết triển khai Quy chế số 01 thấy rằng: hầu hết hiện nay Sở
Tư pháp hoàn toàn căn cứ vào Tờ khai yêu cầu cấp Phiếu LLTP để xác định trường
hợp nào cư trú 01 nơi, trường hợp nào cư trú nhiều nơi để phân loại gửi tra
cứu, xác minh thông tin. Trên thực tế, nhiều trường hợp khi làm Tờ khai yêu cầu
cấp Phiếu, người yêu cầu cấp Phiếu không ghi hoặc che dấu những nơi đã từng cư
trú mà chỉ khai 1 nơi cư trú nhằm mục đích làm Phiếu LLTP nhanh hơn hoặc che
dấu quá trình phạm tội ở địa phương khác. Nhiều trường hợp tra cứu ở địa phương
không có hồ sơ, tài liệu nhưng khi tra cứu tại V06 hoặc Trung tâm thì có tài
liệu phạm tội ở nơi khác; trường hợp đương sự bị Tòa án tuyên trước thời điểm
01/7/2010 nhưng quá trình thi hành án sau thời điểm này, Trung tâm Lý lịch tư pháp
quốc gia và Sở Tư pháp đã lập LLTP.
Do đó, bên cạnh việc
hỗ trợ các Sở Tư pháp cấp Phiếu LLTP bảo đảm sớm và đúng thời hạn, Quy chế 02
còn là giải pháp thực hiện nhiệm vụ của Bộ luật hình sự 2015 giao cho Cơ quan
quản lý cơ sở dữ liệu LLTP (Trung tâm LLTP quốc gia và các Sở Tư pháp) cấp
Phiếu LLTP cho các trường hợp đương nhiên được xóa tích đối với việc xác minh
hành vi phạm tội mới, đặc biệt sự chính xác của nội dung Phiếu LLTP (thực tế sau 3 tháng triển khai Quy chế 02,
Trung tâm tích hợp kết quả của Cục Hồ sơ nghiệp vụ và Phòng Hồ sơ nghiệp vụ thì
hầu hết trường hợp phạm tội ở ngoài tỉnh thì Phòng Hồ sơ nghiệp vụ không có
thông tin).
Hơn nữa,
theo quy định tại Thông tư số 244/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 của Bộ Tài
chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí cung cấp thông
tin LLTP, Sở Tư pháp trích chuyển kinh phí tra cứu, xác minh cho Cơ quan Hồ sơ
nghiệp vụ thông qua Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia. Vì vậy, để có căn cứ
nhận kinh phí này cũng nhưng trích chuyển cho Cơ quan Hồ sơ nghiệp vụ (Cục Hồ
sơ nghiệp vụ và Phòng Hồ sơ nghiệp vu), Sở Tư pháp phải chuyển Hồ sơ lên Phần
mềm theo quy định của Quy chế 02 để Trung tâm rà soát, đối chiếu và trích
chuyển.
7. Khoản 3 Điều 5 Thông tư 32/2017/TT-BTTTT
ngày 15/11/2017 của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc cung cấp dịch vụ công
trực tuyến và bảo đảm khả năng truy cập thuận tiện đối với trang thông tin điện
tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan Nhà nước quy định đối với thủ tục
hành chính cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, người dân có thể nộp, gửi
hồ sơ trực tuyến đến cơ quan cung cấp dịch vụ và nhận kết quả qua dịch vụ bưu
chính. Đồng thời, quy định pháp luật về xử phạt hành chính, truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với hành vi sử dụng giấy tờ giả, làm lộ bí mật đời tư của cá
nhân…, liên quan đến lý lịch tư pháp cũng đã được ban hành từ lâu, điều chỉnh
các hành vi vi phạm trong thực tiễn nếu có. Đặc biệt ở Khánh Hòa, nếu người dân
nộp hồ sơ trực tuyến trên Trung tâm dịch vụ hành chính công trực tuyến thì mỗi
người dân chỉ được cấp duy nhất một tài khoản người dùng, đảm bảo được tính bảo
mật thông tin của người nộp thủ tục hành chính. Công tác phối hợp giữa Sở Tư
pháp và Công an tỉnh trong việc xác minh lý lịch tư pháp được thực hiện hoàn
toàn trên môi trường mạng từ ngày 01/01/2018 đến nay.
Do đó, để thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, Sở Tư pháp kiến
nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu phương án cho phép người dân khi nộp hồ sơ lý lịch
tư pháp trực tuyến mức độ 3 có thể nhận kết quả qua dịch vụ bưu chính mà không
phải gửi hồ sơ gốc đến Sở Tư pháp (UBND tỉnh Khánh Hòa)
Trả lời:
Theo
Quyết định số 877/QĐ-TTg ngày 18/7/2018 của Thủ tướng chính phủ ban hành Danh mục dịch vụ
công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 để các Bộ, ngành, địa phương thực hiện trong
các năm 2018 – 2019, Sở Tư pháp có nhiệm vụ cấp Phiếu LLTP đáp ứng dịch vụ công
trực tuyến mức độ 3. Trong đó, dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 đã được quy
định cụ thể tại Nghị định số 43/2011/NĐ-CP
ngày 13/6/2011 cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông
tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước; Thông tư số
32/2017/TT-BTTT ngày 15/11/2017 của Bộ Thông tin và truyền thông về việc cung
cấp dịch vụ công trực tuyến và bảo đảm khả năng truy cập thuận tiện đối với
trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước, theo
đó, dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 là: dịch
vụ công trực tuyến mức độ 2 và cho phép người sử dụng điền và gửi trực tuyến
các văn bản đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ. Các giao dịch trong quá
trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng. Việc
thanh toán phí, lệ phí (nếu có) và nhận kết quả được thực hiện trực tiếp tại cơ
quan, tổ chức cung cấp dịch vụ hoặc qua dịch vụ bưu chính”.
Như
vậy, việc gửi hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP hoàn toàn có căn cứ thực hiện; nộp
phí cung cấp thông tin LLTP có thể trực tiếp hoặc gửi qua bưu chính. Riêng đối
với việc trả kết quả cấp Phiếu LLTp, do đặc thù của thông tin LLTP là bí mật
đời tư được pháp luật bảo vệ, nên để xác thực chính xác người gửi hồ sơ trực
tuyến có đúng là người được cấp Phiếu LLTP hay không thì Sở Tư pháp phải trả
trực tiếp kết quả cho người được cấp Phiếu LLTP. Khi đến nhận kết quả, cá nhân
phải mang giấy tờ tùy thân (chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu) bản chính để Sở Tư
pháp xác thực và trả kết quả, không phải nộp cho Sở Tư pháp hồ sơ yêu cầu cấp
Phiếu LLTP bản giấy.
Trường
hợp cá nhân có yêu cầu nhận kết quả qua dịch vụ bưu chính thì hướng dẫn cho
người dân thực hiện nộp hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP theo thủ tục cấp Phiếu lý
lịch tư pháp qua dịch vụ bưu chính. Không thực hiện việc nộp hồ sơ yêu cầu cấp
Phiếu lý lịch tư pháp trực tuyến, nhận kết quả qua dịch vụ bưu chính.
8. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm triển khai sửa
đổi, bổ sung Luật LLTP và các văn bản có liên quan theo hướng quy định việc
đương nhiên xóa án tích là một thủ tục hành chính, cần tách biệt với thủ tục
cấp Phiếu LLTP, theo đó thời hạn đương nhiên xóa án tích quy định phù hợp thực
tế, quy định về cơ chế cụ thể bảo đảm cho việc phối hợp cung cấp thông tin LLTP
của các cơ quan có liên quan được nhanh chóng, thuận lợi (UBND thành phố Hồ Chí
Minh)
- Đề nghị Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung về thời hạn cấp Phiếu LLTP đối với
trường hợp phải xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích quy định tại
Khoản 1, Điều 48 Luật LLTP theo hướng: “1. Thời hạn cấp Phiếu LLTP không quá 10
ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ. Trường hợp người được cấp Phiếu LLTP
là công dân Việt Nam đã cư trú ở nhiều nơi hoặc có thời gian cư trú ở nước
ngoài, người nước ngoài quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 47 của Luật này
thì thời hạn không quá 15 ngày; trường hợp phải xác minh về điều kiện đương
nhiên được xóa án tích quy định tại khoản 3 Điều 44 của Luật này thì thời hạn
được kéo dài thêm không quá 25 ngày”(UBND tỉnh Phú Yên)
-
Đề nghị tiếp tục hoàn thiện việc xây dựng thể chế về LLTP, trong đó chú trọng
đến việc rà soát, sửa đổi các quy định pháp luật có liên quan đến LLTP. Đề nghị
Bộ Tư pháp sớm nghiên cứu, sửa đổi bổ sung các văn bản quy phạm pháp
luật về LLTP phù hợp với thực tiễn công tác LLTP hiện nay và lộ trình thực hiện
Chiến lược phát triển LLTP đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt (UBND tỉnh Yên Bái).
- Đề nghị Bộ Tư pháp nghiên
cứu trình Chính phủ đề nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật LLTP và các văn bản
hướng dẫn thi hành, để phù hợp với các quy định của Bộ Luật hình sự và Bộ Luật
tố tụng hình sự 2015 Đồng thời trình Chính phủ ban hành quy chế phối hợp giữ
các bộ, ngành có liên quan đối với việc xác minh và trả lời kết quả xác minh
thông tin trong bản án, như chấp hành xong hình phạt, án phí, có phạm tội mới
trong thời hạn quy định,...để thực hiện việc xóa án tích cho công dân theo đúng
quy định (UBND tỉnh Đồng Tháp)
- Theo quy định tại Điều 369 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 thì Tòa án chỉ cấp giấy chứng nhận xóa án tích cho các trường
hợp người bị kết án về các tội được quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật Hình sự
năm 2015, các tội khác giao trách nhiệm cho cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu LLTP
cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và cấp Phiếu LLTP khi có yêu cầu.
Luật LLTP chưa quy định về trình tự, thời gian, hồ sơ và cơ chế phối hợp xác minh trong trường hợp
này; việc xác minh xóa án tích phải xác minh tại nhiều cơ quan, đơn vị khác
nhau dẫn tới việc thụ lý hồ sơ, cấp Phiếu LLTP cho các trường hợp này không
bảo đảm thời gian theo quy định. Đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, tham mưu sửa
đổi, bổ sung Luật LLTP và các văn bản có liên quan. Trước mắt cần có hướng dẫn
cụ thể về trình tự, thủ tục, hồ sơ thực hiện trách nhiệm quy định tại Điều 369
Bộ luật Tố tụng hình sự để khắc phục triệt để tình trạng cấp Phiếu LLTP chậm
hẹn cho các trường hợp trên (UBND
tỉnh Lạng Sơn)
- Đề nghị Bộ Tư pháp sớm tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội sửa đổi, bổ
sung các quy định của Luật LLTP và văn bản hướng dẫn thi hành cho thống nhất, phù hợp với
các quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Thi
hành án hình sự năm 2010, Luật Phí, lệ phí năm 2015… về xóa án tích, xác minh
điều kiện được xóa án tích, thời hạn cấp Phiếu LLTP trong Luật LLTP... Đề nghị Bộ Tư pháp sớm thay đổi quy định về đối tượng cấp phiếu LLTP số 2, thể hiện chính
sách nhân đạo của pháp luật hình sự và việc tái hòa nhập cộng đồng đối với
người bị kết án. Nên thống nhất chỉ sử dụng một loại phiếu LLTP có nội dung như Phiếu LLTP số 1 hiện nay. Bên cạnh
đó, bổ sung quy định quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân thuộc phạm vi
quản lý của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị, xã hội nếu
pháp luật liên quan có quy định để các cơ quan, tổ chức này thực hiện nhiệm vụ
của mình. Bổ sung quy định đối tượng quản lý LLTP là pháp nhân thương mại phạm tội (STP Bà Rịa- Vũng Tàu);
- Quy định về thời hạn cấp Phiếu như hiện nay (không quá 10 ngày, kể từ
ngày nhận được yêu cầu hợp lệ, phức tạp không quá 15 ngày) là rất khó để đảm
bảo thực hiện trong điều kiện Cơ sở dữ liệu LLTP đang trong quá trình
xây dựng nên để cấp Phiếu, Sở Tư pháp phải phối hợp với nhiều cơ quan để có đủ
thông tin và căn cứ cấp Phiếu theo yêu cầu. Nhất là, các trường hợp có án tích,
phải phối hợp xác minh về điều kiện đương nhiên xóa án tích, gây khó khăn cho
cơ quan tiếp nhận hồ sơ và cho cả người dân. Việc xác minh trong trường hợp này
thường kéo dài do chờ kết quả phản hồi của các cơ quan phối hợp. Đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 48 Luật LLTP theo
hướng tách riêng thời hạn giải quyết đối với trường hợp có án tích, cần phải
xác minh về điều kiện đương nhiên xóa án tích (UBND tỉnh Bến Tre)
- Theo quy định, Phiếu LLTP cấp cho công dân có 02 loại Phiếu nên gây
khó khăn cho người dân trong việc xác định loại Phiếu cần sử dụng, rất nhiều
trường hợp đã yêu cầu cấp Phiếu số 1 sau đó đổi lại Phiếu số 2 và ngược lại.
Mặt khác, do từ ngữ giải thích về loại Phiếu là thuật ngữ chuyên ngành, công
dân không thể hiểu, do đó, cơ quan tiếp nhận hồ sơ phải giải thích rõ cho từng
trường hợp yêu cầu để người dân hiểu, dẫn đến việc bị động trong công tác tiếp
nhận hồ sơ do lượng hồ sơ yêu cầu rất nhiều. Song song đó, quy định công dân có
quyền yêu cầu cấp Phiếu số 02 để biết được nội dung về LLTP của mình cũng phát
sinh nhiều bất cập; quy định này nhằm đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của cá
nhân. Tuy nhiên, do nội dung xác nhận tình trạng án tích ghi đầy đủ tình trạng
án tích (bao gồm cả án tích đã được xóa) nên một số cơ quan đã lạm dụng quy
định này, yêu cầu cá nhân phải nộp Phiếu số 02 khi làm các thủ tục (xin thị
thực nhập cảnh, đăng ký kết hôn, bổ túc hồ sơ làm việc...) để nắm rõ thông tin
nhân thân, tình trạng lý lịch; một số trường hợp bị từ chối cấp thị thực do
từng bị kết án mặc dù án tích đã được xóa. Điều này ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân. Trong khi đó, để chứng minh cá nhân có hay không có
án tích để tham gia vào giao dịch thì nội dung của Phiếu số 01 cũng đủ để đáp
ứng. Về thủ tục yêu cầu cấp Phiếu không có quy
định nộp hoặc xuất trình giấy tờ chứng minh mối quan hệ để ghi thông tin trong
Phiếu. Tuy nhiên, nội dung Phiếu số 02 ghi thông tin về họ tên cha, mẹ, vợ hoặc
chồng nên gây khó khăn cho cơ quan tiếp nhận hồ sơ. Nếu yêu cầu cung cấp giấy
tờ chứng minh để ghi quan hệ cha, mẹ, vợ/chồng thì làm phát sinh thủ tục, không
đúng quy định; nếu chỉ căn cứ vào Tờ khai thì cơ quan cấp Phiếu mặc nhiên thừa
nhận các mối quan hệ về nhân thân của người được cấp Phiếu, trong khi đó, thông
tin do người dân cung cấp không chính xác nhưng không có cơ sở kiểm chứng,
nhiều trường hợp con ngoài giá thú nhưng khai thông tin về người cha hoặc chưa
đăng ký kết hôn nhưng khai thông tin về người chồng/vợ…Người dân sử dụng Phiếu
để thực hiện các thủ tục hành chính tiếp theo tại các cơ quan khác thì phát
hiện sai thông tin. Do đó, khá nhiều trường hợp trở lại Sở Tư pháp yêu cầu cấp
lại Phiếu theo giấy tờ thể hiện mối quan hệ.Đề nghị Bộ Tư pháp
sớm tham mưu, đề xuất sửa đổi Luật LLTP theo hướng chỉ cấp một loại Phiếu và
nội dung Phiếu không ghi họ tên cha, mẹ, vợ/chồng (UBND tỉnh Bến Tre)
Trả
lời:
Thực hiện Nghị quyết số 22/2016/QH14 ngày 29/7/2016 của Quốc hội về điều
chỉnh Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2016 và Chương trình xây dựng
Luật, Pháp lệnh năm 2017, Nghị quyết số 34/2017/QH14 về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2018
và điều chỉnh Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2017, Bộ Tư pháp
đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng dự án Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật LLTP. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật LLTP tập trung sửa đổi,
bổ sung một số nội dung nhằm
cập nhật các quy định mới được ban hành sau Luật LLTP hiện hành, bảo
đảm tính thống nhất và đồng bộ của Luật LLTP với các văn bản pháp luật
khác có liên quan, đặc biệt là chế định đương nhiên xóa án tích quy định trong Bộ
luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; bỏ quy định về cấp Phiếu LLTP số 2 cho cá nhân,
đồng thời bổ sung quy định về cung cấp thông tin LLTP theo yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; nâng cao chất lượng của Cơ sở dữ liệu LLTP nhằm đáp ứng yêu cầu
trong tình hình mới... Những đề xuất, kiến nghị của UBND các tỉnh/thành phố
trực thuộc Trung ương trên đây đã được thể hiện tại dự thảo Luật sửa đổi này.
Tuy nhiên, Ủy ban Tư pháp có Báo cáo
thẩm tra số 791/BC-UBTP14 ngày 03/8/2017, trong đó, Ủy ban Tư pháp cho
rằng do Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi căn bản với việc bổ
sung quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, vì vậy việc nghiên
cứu, bổ sung quy định về án tích của pháp nhân thương mại vào dự thảo Luật là
yêu cầu bắt buộc. Trong khi đó các thông tin về tình trạng thi hành án đối với
pháp nhân thương mại và nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong việc cung cấp
thông tin về thi hành án phải được quy định trong Luật Thi hành án hình sự. Trên cơ sở ý kiến của Ủy ban Tư pháp, để
bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, ngày 07/9/2017, Bộ trưởng Bộ Tư
pháp đã thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ ký Tờ trình số 378/TTr-CP về Dự án
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật LLTP Chính phủ đề nghị Ủy ban thường
vụ Quốc hội cho phép lùi thời hạn trình dự án Luật này.
Hiện nay, Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án
hình sự được thông qua, Bộ Tư
pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu, đề xuất sửa đổi Luật LLTP vào thời điểm thích hợp.
Tuy nhiên, trước mắt, để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nêu
trên để khắc phục tình trạng chậm cấp Phiếu LLTP, Trung tâm LLTP quốc gia có
Công văn số 558/TTLLTPQG-HCTH ngày 26/12/2018 về việc hướng dẫn nghiệp vụ LLTP,
theo đó Công văn này đã hướng dẫn cụ thể về những thủ tục cấp Phiếu cho đối
tượng đương nhiên được xóa án tích, trình tự, thủ tục, hồ sơ cấp Phiếu
LLTP cho trường hợp đương nhiên được xóa án tích; nghiệp vụ tra cứu, xác minh
thông tin LLTP, nghiệp vụ xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích …
trong một số trường hợp đặc biệt.
Đặc biệt, để đảm bảo
đúng thời hạn cấp Phiếu LLTP cho người dân cũng như giúp cho các Sở Tư pháp
trong các trường hợp xác minh điều kiện đương nhiên xóa án tích, xác minh hành
vi phạm tội mới, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Bộ Tư pháp đã phối hợp với
Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát, Bộ Công an xây dựng Quy chế số
02/QCPH-TTLLTPQG-C53 phối hợp tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu LLTP, có
hiệu lực từ ngày 01/01/2019. Theo đó, Sở Tư pháp sẽ không cần phải phân loại hồ
sơ, tiến hành tra cứu đồng thời tại 03 cơ quan: Trung tâm LLTP quốc gia - Cục
Hồ sơ nghiệp vụ, Bộ Công an – Phòng Hồ sơ nghiệp vụ, Công an tỉnh trên đường
truyền mạng qua Phần mềm Hỗ trợ tra cứu, xác minh, thông tin để cấp Phiếu LLTP.
V06, Phòng Hồ sơ nghiệp vụ có trách nhiệm trả lời kết quả trong thời hạn 5 ngày
làm việc, trường hợp có thông tin đến việc khởi tố, kết án thì thời hạn 09 ngày
làm việc và cung cấp các bản photo các tài liệu có liên quan như bản án, quyết
định thi hành án, Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù…, bảo đảm độ
chính xác của thông tin, qua đó giúp cho Sở Tư pháp trả kết quả sớm hoặc đúng
thời hạn cấp Phiếu LLTP, rút ngắn thời hạn cấp Phiếu LLTP theo tinh thần cải
cách hành chính của địa phương.
Mặt khác, đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố tiếp tục
chỉ đạo đối với cơ quan Công an và đề nghị cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát tại
địa phương thực hiện tốt hơn nữa các quy định của pháp luật về LLTP, bảo đảm
các cơ quan này cung cấp thông tin LLTP về án tích đầy đủ cho Sở Tư pháp để xây
dựng cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu LLTP; đặc biệt chỉ đạo Sở Tư pháp và Công
an tỉnh phối hợp chặt chẽ với Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia trong triển khai
thực hiện Quy chế số 02/QCPH-TTLLTPQG-C53 ngày 29/6/2018 giữa Trung tâm Lý lịch
tư pháp quốc gia, Bộ Tư pháp và Cục Hồ sơ nghiệp vụ, Bộ Công an phối hợp tra
cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu LLTP.
9. Đề nghị Bộ Tư pháp xem xét, thu hẹp đối tượng bị coi là có án tích, vì khoản 2
Điều 69 và Điều 107 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định 05 trường hợp người
bị kết án không bị coi là có án tích (STP Bà Rịa- Vũng Tàu)
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 69 và Điều 107 của Bộ luật Hình sự 2015 thì có 05 trường hợp
không bị coi là có án tích bao gồm:
- Người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị kết án;
- Người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý;
- Người dưới 18 tuổi bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục
tại trường giáo dưỡng;
- Người đã thành niên bị kết án do lỗi vô ý về tội ít
nghiêm trọng, tội nghiêm trọng.
- Người được miễn hình phạt.
Căn cứ
khoản 1 Điều 4 Luật LLTP “LLTP được lập
trên cơ sở bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật,
quyết định của Tòa án tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh
nghiệp, hợp tác xã bị phá sản đã có hiệu lực pháp luật”. Ngoài ra, cơ quan
quản lý Cơ sở dữ liệu LLTP có trách nhiệm cấp Phiếu LLTP số 2 cho cơ quan tiến
hành tố tụng để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử. Vì vậy, Trung tâm
LLTP quốc gia và Sở Tư pháp vẫn có trách nhiệm xây dựng Cơ sở dữ liệu LLTP đối
với cả những trường hợp nêu trên và cung cấp đầy đủ thông tin về bản án, quá
trình thi hành án khi có yêu cầu.
10. Đề nghị Bộ Tư pháp trao đổi với Bộ Tài chính để bổ sung đối tượng là học sinh trong độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi
được miễn, giảm phí cung cấp thông tin LLTP vào Thông tư số 244/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính (STP Bà Rịa-
Vũng Tàu)
Trả lời:
Hiện nay, Thông tư số 244/2016/TT-BTC
ngày 11/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về việc miễn phí cung cấp
thông tin LLTP cho trẻ em dưới 16 tuổi (khoản 1 Điều 5) và giảm 50% phí cung
cấp thông tin LLTP cho sinh viên (Điều 4) mà chưa miễn, giảm phí cung cấp thông
tin LLTP cho học sinh trên 16 tuổi. Bộ Tư pháp xin ghi nhận kiến nghị của UBND
tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu, đề nghị Bộ
Tài chính bổ sung nội dung trên khi sửa đổi Thông tư số 244/2016/TT-BTC.
11. Đề nghị Bộ Tư
pháp sửa đổi, bổ sung Thông tư liên
tịch số 04/2012/TTLV-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP
ngày 10/5/2012 về hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông
tin Lý lịch tư pháp cho phù hợp với các quy định của pháp luật và thực tế hiện
nay.
Ngoài ra, xem xét sửa đổi khoản 1 Điều 26 Luật Lý lịch tư pháp là “Sở
Tư pháp nơi người bị kết án thường trú lập Lý lịch tư
pháp của người đó; trường hợp không xác định được nơi thường
trú thì Tòa án xét xử gửi bản án về Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia lập, theo dõi” thay cho quy định hiện hành, kịp thời khắc
phục khó khăn trong việc tra cứu, xác minh thông tin Lý lịch tư pháp, từ đó dẫn
đến tính thiếu chính xác trong các thông tin về án tích (trong thời gian vừa
qua có một số trường hợp tra cứu của Trung tâm Lý lịch tư pháp là không có án tích,
nhưng Sở Tư pháp lại được công dân cung thông tin về án tích…) và không đảm
bảo thời hạn cấp phiếu cho công dân khi có yêu cầu (STP Bà Rịa- Vũng Tàu)
Trả lời:
Theo
quy định của Luật Lý lịch tư pháp, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư
pháp là cơ quan quản lý CSDL LLTP, có trách nhiệm tiếp nhận, kiểm tra, phân
loại, xử lý thông tin LLTP, còn các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Công an...
là những cơ quan phối hợp, có trách nhiệm cung cấp, tra cứu, xác minh thông tin
LLTP. Việc kiểm tra, phân loại, cung cấp thông tin thuộc thẩm quyền lập LLTP
cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp với những nghiệp vụ đặc
thù. Trường hợp, giao cho cơ quan tòa án phân loại cung cấp sẽ gây khó khăn cho
cơ quan tòa án trong việc bảo đảm cung cấp thông tin theo yêu cầu của Luật Lý
lịch tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ngoài ra, để đảm bảo thông tin
LLTP được cung cấp đều đặn, thường xuyên, định kỳ, dưới sự chỉ đạo của Ủy ban
nhân dân tỉnh, sự phối hợp cung cấp, rà soát thông tin giữa với các cơ quan
trên cùng địa bàn sẽ gặp thuận lợi hơn so với sự phối hợp giữa các cơ quan ở
các tỉnh khác nhau.
Năm 2018, chỉ 14 hồ sơ trễ hẹn, trong đó 13 trường
hợp do việc cung cấp biểu mẫu LLTP không kịp thời; 01 trường hợp do Tòa án quân
sự trả lời kết quả xác minh chậm; 06 tháng đầu năm 2019 không có hồ sơ trễ hẹn.
Hiện nay vẫn chưa có giải pháp kết nối giữa Phần mềm
của địa phương và Phần mềm của Bộ Tư pháp. Do đó, cùng một nội dung thông tin
của hồ sơ nhưng công chức phải thực hiện nhập 02 lần vào 02 Phần mềm khác nhau.
Quy trình nội bộ được xây dựng theo quy định tại Nghị
định số 61/2018/NĐ-CP và Thông tư số 01/2018/TT-VPCP. Theo đó, quy trình nội bộ
phải được xây dựng trên cơ sở TTHC đã được công bố.