Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
TỔNG HỢP TIẾP NHẬN VÀ TRẢ LỜI KIẾN NGHỊ CỦA CÁC BỘ, NGÀNH, ỦY BAN NHÂN DÂN CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CỦA BỘ TƯ PHÁP 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2019
Lượt xem: 2567

LĨNH VỰC HỘ TỊCH, QUỐC TỊCH, CHỨNG THỰC

1. Đề nghị Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp địa phương, đặc biệt là công chức Tư pháp - Hộ tịch ở cấp xã (UBND các tỉnh Hà Tĩnh, Sóc Trăng)

Trả lời:

Việc tập huấn nghiệp vụ hộ tịch được xác định là nhiệm vụ cần thực hiện thường xuyên của cơ quản lý nhà nước về hộ tịch ở cả Trung ương (Bộ Tư pháp) và địa phương (UBND các cấp).

Do đó, ở Trung ương, Bộ Tư pháp đã xây dựng Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch tại cấp huyện, cấp xã và các Trường Trung cấp luật; cử báo cáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy các lớp tập huấn nghiệp vụ tại cơ sở.

Về phía các địa phương, đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh quan tâm, chỉ đạo Sở Tư pháp chủ động xây dựng kế hoạch tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, bố trí đội ngũ báo cáo viên có đủ năng lực, phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức bồi dưỡng và cấp chứng chỉ cho công chức làm công tác hộ tịch trên địa bàn theo đúng quy định của Luật hộ tịch.

2. Trong các văn bản về chứng thực bản dịch chưa có quy định về lời chứng bằng tiếng nước ngoài, nhất là đối với bản dịch từ tiếng Việt ra tiếng nước ngoài. Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cán nhân trong quá trình sử dụng bản dịch, đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, tham mưu cho Chính phủ quy định bổ sung về lời chứng bằng tiếng nước ngoài đối với việc chứng thực bản dịch từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài (UBND tỉnh Hải Dương)

Trả lời:

Khoản 1 Điều 69 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định:Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản là tiếng Việt, chính xác, phổ thông. Không dùng từ ngữ địa phương, từ ngữ cổ và từ ngữ thông tục.

Như vậy, về nguyên tắc, các nội dung được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật phải bằng tiếng Việt. Do đó, việc chỉ quy định mẫu lời chứng bằng tiếng Việt là phù hợp với quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Mặt khác, hiện nay, nhu cầu dịch từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài là rất đa dạng, từ những thứ tiếng phổ thông như Anh, Pháp, Trung Quốc, Nga, Đức… hay đến những thứ tiếng ít phổ biến như Thụy Điển, Ả Rập, Lào, Campuchia… Do đó, cơ quan ban hành không thể định lượng hết để quy định mẫu lời chứng bằng tiếng nước ngoài.

3. Đề nghị Bộ Tư pháp có hướng dẫn đối với các khó khăn, vướng mắc trong lĩnh vực chứng thực như sửa đổi Điều 7 của Thông tư số 20/2015/TT-BTP theo hướng: đối với trường hợp bản chính có nhiều trang thì người yêu cầu chứng thực bản sao từ bản chính chỉ chụp những trang có nhu cầu sử dụng; đề xuất miễn giảm phí chứng thực đối với các đối tượng thuộc khoản 1 Điều 10 Luật phí và lệ phí năm 2015; về thời hạn lưu trữ và tiêu hủy đối với các hồ sơ chứng thực chữ ký quy định tại Khoản 2, Điều 14 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch (UBND Tp Hồ Chí Minh)

Trả lời:

- Về việc sửa đổi Điều 7 Thông tư số 20/2015/TT-BTP theo hướng: đối với trường hợp bản chính có nhiều trang thì người yêu cầu chứng thực bản sao từ bản chính chỉ chụp những trang có nhu cầu sử dụng

Khoản 6 Điều 2 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP quy định: “Bản sao là bản chụp từ bản chính hoặc bản đánh máy có nội dung đầy đủ, chính xác như nội dung ghi trong sổ gốc”.

Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP quy định: “Bản sao được chứng thực từ bản chính theo quy định tại Nghị định này có giá trị sử dụng thay cho bản chính đã dùng để đối chiếu chứng thực trong các giao dịch, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

Như vậy, bản sao phải bảo đảm đầy đủ, chính xác như bản chính thì mới có giá trị sử dụng thay thế bản chính. Do đó, nếu chỉ chứng thực những trang mà người có nhu cầu sử dụng yêu cầu thì sẽ không bảo đảm được giá trị sử dụng thay thế cho bản chính.

Ngoài ra, nếu chỉ chứng thực những trang mà người có nhu cầu sử dụng yêu cầu thì sẽ không thể xác định được chính xác những bản chính đó có thuộc trường hợp không được chứng thực bản sao từ bản chính hay không.

 - Về đề xuất miễn giảm phí chứng thực đối với các đối tượng thuộc khoản 1 Điều 10 Luật phí và lệ phí năm 2015

Liên quan đến kiến nghị này, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 2849/BTP-HTQTCT ngày 14/8/2017 trao đổi với Bộ Tài chính theo hướng đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu sửa đổi Thông tư số 226/2016/TT-BTC để bổ sung các đối tượng được miễn phí là hộ nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn… (bao gồm cả phí chứng thực bản sao, chứng thực chữ ký, chứng thực hợp đồng, giao dịch). Việc miễn phí chứng thực đối với các đối tượng này vừa bảo đảm được sự thống nhất trong hệ thống pháp luật, đồng thời thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta.

- Về thời hạn lưu trữ và tiêu hủy đối với các hồ sơ chứng thực chữ ký quy định tại Khoản 2, Điều 14 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch

Do kiến nghị không nêu rõ khó khăn, vướng mắc liên quan đến Khoản 2 Điều 14 nên Bộ Tư pháp không có căn cứ để trả lời.

4. Về công tác hộ tịch: Khoản 1 Điều 30 Luật Hộ tịch quy định: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật liên quan đến thay đổi hộ tịch của cá nhân…, Tòa án nhân dân, ... có trách nhiệm thông báo bằng văn bản kèm theo trích lục bản án, bản sao quyết định đến Ủy ban nhân dân nơi đã đăng ký hộ tịch của cá nhân để ghi vào Sổ hộ tịch…”

Điều 31 Luật hộ tịch quy định: “Ngay sau khi nhận được thông báo theo quy định tại Điều 30 của Luật này, công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung thay đổi vào Sổ hộ tịch theo bản án, quyết định của Tòa án nhân dân,…”.

Tuy nhiên, hiện nay các biểu mẫu (bản án, quyết định) trong tố tụng dân sự/giải quyết việc dân sự của ngành Tòa án liên quan đến “thay đổi hộ tịch của cá nhân” theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Hộ tịch đều không thể hiện thông tin về đăng ký hộ tịch (thời điểm đăng ký, số giấy tờ hộ tịch…), dẫn đến tình trạng các cơ quan đăng ký hộ tịch không có cơ sở để ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân; hoặc để thực hiện được việc ghi vào Sổ, cơ quan đăng ký hộ tịch phải liên hệ với Tòa án nhân dân hoặc người có thông tin thay đổi để được cung cấp thêm thông tin/tài liệu làm cơ sở ghi chú.

Ví dụ: Mẫu Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự Mẫu số 31-VDS (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 04/2018/NQ-HĐTP ngày 09 tháng 8 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao)

Đề nghị Bộ Tư pháp có ý kiến với Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tháo gỡ vướng mắc trên để cơ quan đăng ký hộ tịch có cơ sở ghi chú vào sổ hộ tịch theo quy định (UBND tỉnh Khánh Hòa)

Trả lời:

Về vấn đề này, Bộ Tư pháp sẽ tổng hợp, trao đổi với Tòa án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, để thuận lợi cho cơ quan đăng ký hộ tịch thực hiện ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo Sở Tư pháp chủ động trao đổi, phối hợp với Tòa án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện có cơ chế cung cấp thông tin theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật hộ tịch làm cơ sở thực hiện ghi chú.

5. Đề nghị Bộ Tư pháp xem xét, trình Chính phủ cho phép nhập quốc tịch Việt nam đối với 294 trường hợp di cư tự do khu vực biên giới Việt Nam – Lào trên địa bàn tình sơn La có đủ điều kiện nhập quốc tịch Việt Nam theo Đề án thực hiện “Thỏa thuận giải quyết vấn đề người di cư tự do, kết hôn không giá thú trong vùng biên giới Việt Nam - Lào đến năm 2019” (UBND tỉnh Sơn La)

Trả lời:

Trên cơ sở đề xuất của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La tại Công văn số 1976/UBND-NC ngày 15/6/2019, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ ký Tờ trình trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam đối với 294 trường hợp hợp di cư tự do và kết hôn không giá thú hiện cư trú trên địa bàn tỉnh Sơn La. Ngay sau khi có Quyết định của Chủ tịch nước, Bộ Tư pháp sẽ thông báo đến Uỷ ban nhân dân tỉnh.

6. Theo quy định của Luật Hộ tịch, người có thẩm quyền ký cấp giấy tờ hội tịch đối với các việc đăng ký hộ tịch thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp huyện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.

Tuy nhiên, tại Khoản 6 Điều 29 Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định về một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện như sau: “… ủy quyền cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện hoặc người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong phạm vi thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện”.

Để đảm bảo thời hạn giải quyết hồ sơ đối với các thủ tục hành chính có quy định thời gian giải quyết trong ngày (khai sinh, khai tử, cấp bản sao trích lục hộ tịch) là rất khó khăn. Đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu có văn bản hướng dẫn địa phương cho phép Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ủy quyền cho Trưởng Phòng Tư pháp cấp huyện ký giấy tờ, bản sao trích lục hộ tịch để thực hiện thống nhất trong toàn quốc (UBND tỉnh Sơn La)

Trả lời:

Việc ủy quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cho người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nhất định được thực hiện theo quy định tại khoản 6 Điều 29 Luật tổ chức chính quyền địa phương, theo đó, Chủ tịch UBND cấp huyện “...ủy quyền cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện hoặc người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong phạm vi thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện”.

Tuy nhiên, liên quan đến việc ủy quyền, khoản 1 Điều 14 Luật tổ chức chính quyền địa phương quy định: “Trong trường hợp cần thiết, cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có thể ủy quyền bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể”.

Như vậy, Luật tổ chức chính quyền địa phương không quy định hạn chế việc ủy quyền, tuy nhiên, việc ủy quyền chỉ thực hiện trong một khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể. Việc giao cho Trưởng phòng Tư pháp ký cấp giấy tờ hộ tịch là công việc mang tính chất thường xuyên, liên tục, không đúng với việc ủy quyền, không phù hợp với khoản 1 Điều 14 Luật tổ chức chính quyền địa phương.

7. Đề nghị Bộ Tư pháp tham mưu Chính phủ sớm phê duyệt cho Trà Vinh được tham gia Tiểu đề án 2 của Bộ Tư pháp về “Giải quyết các vấn đề quốc tịch, hộ tịch, hộ khẩu và giấy tờ tùy thân khác cho người di cư tự do từ Campuchia về nước” để Sở Tư pháp tham mưu UBND tỉnh kịp thời giải quyết khó khăn của địa phương (UBND tỉnh Trà Vinh)

Trả lời:

Ngày 28/12/2018, Bộ Tư pháp đã có Báo cáo số 591/BTP-HTQTCT-m báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình triển khai Tiểu Đề án 2. Trong đó có đề xuất với Thủ tướng Chính phủ cho phép một số tỉnh không phải là tỉnh biên giới (trong đó có Trà Vinh), nhưng có đông người di cư tự do từ Campuchia về cư trú, được áp dụng cơ chế của Tiểu Đề án 2 để giải quyết vấn đề quốc tịch, hộ tịch, hộ khẩu, đặc biệt là cấp Thẻ thường trú. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại Thủ tướng Chính phủ chưa cho ý kiến về vấn đề này.

8. Đề nghị Bộ Tư pháp khi tham gia xây dựng Luật sửa đổi các Luật như: Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật Đất đai, Luật Nhà ở…. và sửa đổi bổ sung Nghị định số 29/2015/NĐ-CP về công chứng, Nghị định số 23/2015/NĐ-CP về chứng thực hết sức quan tâm đến tính đồng bộ giữa các văn bản quy phạm pháp luật này gắn với các chủ trương, chính sách khác. Riêng vấn đề nhiệm vụ, thẩm quyền chứng thực hợp đồng giao dịch của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã nên sớm xem xét đưa vào chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thời gian sớm nhất để kịp thời đáp ứng, phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới (STP          Bình Phước)

Trả lời:

Đối với kiến nghị này, Bộ Tư pháp sẽ xem xét để phối hợp với các cơ quan có liên quan trong quá trình xây dựng văn bản.

9. Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Tư pháp TW: Tòa án, Viện kiểm sát, Công an,... tăng cường chỉ đạo theo ngành dọc công tác phối hợp trong việc cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông tin: bản án, quyết định,… phục vụ việc cung cấp, chia sẻ thông tin về ly hôn để thực hiện ghi chú ly hôn, xác nhận tình trạng hôn nhân (UBND Tp Hà Nội)

Trả lời:

Về trách nhiệm thông báo khi có sự thay đổi hộ tịch, khoản 1 Điều 30 Luật hộ tịch đã quy định rõ: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật liên quan đến thay đổi hộ tịch của cá nhân theo quy định tại khoản 2 Điều 3 của Luật này, Tòa án nhân dân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo bằng văn bản kèm theo trích lục bản án, bản sao quyết định đến Ủy ban nhân dân nơi đã đăng ký hộ tịch của cá nhân để ghi vào Sổ hộ tịch; trường hợp nơi đăng ký hộ tịch là Cơ quan đại diện thì thông báo cho Bộ Ngoại giao để chuyển đến Cơ quan đại diện ghi vào Sổ hộ tịch”.

Do đó, tại các địa phương mà Tòa án nhân dân không thực hiện việc gửi thông báo cho Ủy ban nhân dân theo quy định nêu trên thì đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo Sở Tư pháp tập hợp, báo cáo về Bộ Tư pháp (Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực) để Bộ Tư pháp có văn bản trao đổi với Tòa án nhân dân tối cao.

LĨNH VỰC LÝ LỊCH TƯ PHÁP

1. Đề nghị Bộ Tư pháp cho phép tỉnh Đồng Nai thí điểm cấp phiếu lý lịch tư pháp điện tử (song song với cấp Phiếu lý lịch tư pháp bản giấy như hiện nay) cho các đối tượng có nhu sử dụng phiếu lý lịch tư pháp điện tử theo Công văn số 8822/UBND-HCC ngày 21/8/2018 của UBND tỉnh Đồng Nai (UBND tỉnh Đồng Nai)

Trả lời:

Theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp (LLTP) và các văn bản hướng dẫn thi hành, cụ thể tại khoản 1 Điều 4 Thông tư số 13/2011/TT-BTP ngày 27/6/2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành và hướng dẫn sử dụng biểu mẫu và mẫu LLTP, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp sử dụng giấy in màu có hoa văn do Bộ Tư pháp phát hành để in nội dung Phiếu LLTP cấp cho người có yêu cầu. Vì vậy theo quy định hiện nay, chỉ có Phiếu LLTP bằng văn bản giấy mới có giá trị pháp lý, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định giá trị pháp lý, trình tự, thủ tục cấp Phiếu LLTP điện tử. Do đó, việc UBND tỉnh Đồng Nai đề nghị thực hiện thí điểm việc cấp Phiếu LLTP điện tử trên địa bàn là không có cơ sở pháp lý để thực hiện.

2. Đề nghị Bộ Tư pháp trao đổi, thống nhất với Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an đề nghị Tổng cục Thi hành án dân sự quan tâm hơn nữa trong việc cung cấp thông tin theo đề nghị của Sở Tư pháp đảm bảo việc cấp Phiếu Lý lịch tư pháp cho công dân (UBND tỉnh Hà Nam)

- Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Tư pháp TW: Tòa án, Viện kiểm sát, Công an,... tăng cường chỉ đạo theo ngành dọc công tác phối hợp trong việc cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông tin: bản án, quyết định,… phục vụ việc xây dựng CSDL lý lịch tư pháp, việc xóa án tích đương nhiên cho công dân (UBND Tp Hà Nội)

- Đề nghị Bộ Tư pháp sớm tham mưu Chính phủ ban hành quy chế phối hợp và tổ chức ký kết quy chế phối hợp giữa Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao đối với việc xác minh và trả lời kết quả xác minh thông tin về bản án hoặc người bị kết án đã chấp hành đầy đủ quyết định của Tòa án trong bản án (như chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, án phí, trách nhiệm dân sự cũng như thông tin người đó có phạm tội mới trong thời hạn quy định để đương nhiên được xóa án tích không). Đặc biệt đối với các bản án đã bị mờ không đọc được, không còn lưu trữ để cơ quan Tư pháp thực hiện xóa án tích cho công dân theo quy định (STP Bà Rịa- Vũng Tàu)

- Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với các Bộ, ngành Trung ương chỉ dạo các cơ quan Ngành dọc cung cấp đầy đủ thông tin án tích còn tồn đọng hoặc có giải pháp xây dựng Đề án giải quyết thông tin án tích còn tồn đọng để phục vụ kịp thời công tác tra cứu, giải quyết thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp (UBND tỉnh Sơn La)

Trả lời:

Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành luật đã quy định cụ thể nhiệm vụ, trách nhiệm của các cơ quan (công an, tòa án, viện kiểm sát, thi hành án) trong việc cung cấp thông tin LLTP về án tích cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP (Trung tâm LLTP quốc gia và các Sở Tư pháp) để xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu LLTP; đồng thời cũng quy định rõ những loại thông tin LLTP về án tích phải cung cấp cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP (như: trích lục bản án, các quyết định thi hành, giấy chứng nhận liên quan đến việc thi hành bản án của người bị kết án...). Đặc biệt, Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 liên tịch Bộ Tư pháp, Tòa án NDTC, Viện Kiểm sát NDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng  hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin LLTP tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan ở Trung ương và giữa các cơ quan ở địa phương (Sở Tư pháp, Công an, Tòa án, Viện kiểm sát tỉnh/thành phố). Ngoài ra, triển khai công tác phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an tại Thông báo kết luận số 02/TB-BCA-BTP ngày 23/02/2017 của Bộ trưởng Bộ Công an và Bộ trưởng Bộ Tư pháp về công tác phối hợp năm 2017 và các năm tiếp theo, Trung tâm LLTP quốc gia phối hợp với Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát (C53), Bộ Công an ký Quy chế số 02/QCPH-TTLLTPQG-C53 phối hợp tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu LLTP, có hiệu lực từ ngày 01/01/2019.

Như vậy, Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn thi hành cơ bản đã quy định đầy đủ trách nhiệm của các Bộ, ngành, các cơ quan liên quan trong việc cung cấp thông tin LLTP về án tích cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP nói chung và Sở Tư pháp tỉnh/thành phố nói riêng.

Tuy nhiên, để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình cung cấp thông tin LLTP về án tích của các cơ quan liên quan như kiến nghị nêu trên, về phía Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng để chỉ đạo các cơ quan liên quan thuộc Bộ, ngành mình triển khai nghiêm túc, hiệu quả các quy định của pháp luật về LLTP. Mặt khác, đề nghị UBND tỉnh/thành phố tiếp tục chỉ đạo đối với cơ quan Công an và đề nghị cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát tại địa phương thực hiện tốt hơn nữa các quy định của pháp luật về LLTP, bảo đảm các cơ quan này cung cấp thông tin LLTP về án tích đầy đủ cho Sở Tư pháp để xây dựng Cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu LLTP.

3. Đề nghị Bộ Tư pháp chỉ đạo Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia có các giải pháp nhằm hạn chế việc trễ hẹn khi tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu Lý lịch tư pháp đảm bảo thống nhất về thời gian giải quyết theo Quy chế, bộ thủ tục hành chính trong lĩnh vực lý lịch tư pháp do Bộ Tư pháp ban hành và bộ thủ tục hành chính công bố tại các địa phương (UBND tỉnh Hà Nam)

- Đề nghị Bộ Tư pháp (Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia) thực hiện việc tra cứu, xác minh thông tin đảm bảo thời gian để cấp Phiếu Lý lịch tư pháp kịp thời. Các trường hợp có án tích đã lâu đề nghị hỗ trợ địa phương xác minh để cấp Phiếu đúng hạn cho đương sự (UBND tỉnh Sóc Trăng)

- Việc tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo Quy chế phối hợp số 02/QCPH-TTLLTPQG-C53 ngày 29 tháng 6 năm 2018 của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia - Bộ Tư pháp và Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sách - Bộ Công an về phối hợp tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu lý lịch tư pháp còn một số hạn chế, vướng mắc, việc trả kết quả tra cứu của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia còn chậm so với thời hạn quy định, ảnh hướng đến việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho công dân (UBND tỉnh Đồng Tháp)

Trả lời:

          Để giải quyết tình trạng chậm thời hạn cấp Phiếu LLTP, trên cơ sở thống nhất giữa Lãnh đạo Bộ Tư pháp và Lãnh đạo Bộ Công an, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Bộ Tư pháp và Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát (nay là Cục Hồ sơ nghiệp vụ), Bộ Công an ký Quy chế số 02/QCPH-TTLLTPQG-C53 phối hợp tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu LLTP (gọi tắt là Quy chế số 02) để hỗ trợ Sở Tư pháp của 63/63 tỉnh/thành phố tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu LLTP. Theo giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin tại Quy chế này, Sở Tư pháp tỉnh/thành phố gửi Hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP đến đồng thời 3 cơ quan: Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Bộ tư pháp - Cục Hồ sơ nghiệp vụ (V06), Bộ Công an - Phòng Hồ sơ công an tỉnh tại địa phương (PV06) để 3 cơ quan cùng tra cứu tại Cơ sở dữ liệu của mình. Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia có trách nhiệm tích hợp kết quả của V06 và PV06 với kết quả tra cứu của Trung tâm để trả lời Sở Tư pháp trong thời hạn 5 ngày làm việc, những trường hợp phức tạp như đã từng bị kết án, có tiền sự… thời hạn là 09 ngày làm việc. Như vậy, khi thực hiện theo Quy chế số 02, Trung tâm LLTP quốc gia phối hợp với V06 và PV06 trả kết quả sớm hơn với thời hạn Luật định. Tuy nhiên, hiện nay, theo thống kê thì vẫn còn một tỷ lệ nhỏ, khoảng 2 đến 3% còn chậm so với quy định (trước đây tỷ lệ chậm cấp Phiếu LLTP đến 40%, đặc biệt có tỉnh lên đến 60 - 70%). Những trường hợp trả kết quả tra cứu, xác minh trễ hạn là những trường hợp người yêu cầu cấp Phiếu LLTP không khai trung thực về quá trình cư trú, thay đổi thông tin nhân dân, từng bị kết án...; hoặc là những trường hợp khi tra cứu, xác minh thấy rằng đương sự đã từng bị bắt, lập căn cước nhưng chưa rõ kết quả xử lý của các cơ quan tố tụng.

Tuy nhiên, để giải quyết triệt để tỷ lệ chậm này, ngày 4/7/2019, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia họp, thống nhất với V06 những giải pháp để chấm dứt tình trạng này trong thời gian tới.

 Về phía Ủy ban nhân tỉnh: Đề nghị Ủy ban nhân tỉnh cũng có chỉ đạo quyết liệt cho Sở Tư pháp, Công an tỉnh thực hiện nghiêm túc Quy chế số 02 trên đây, bảo đảm việc cấp Phiếu LLTP cho người dân sớm và đúng hạn.

4. Theo Quy chế phối hợp số 02/QC-TTLLTPQG-C53 về tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu lý lịch tư pháp giữa Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp, V06 Bộ Công an và phòng Hồ sơ, Công an tỉnh thì tất cả các hồ sơ yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp phải gửi đến Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, đồng thời đến Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát, Bộ Công an và phòng hồ sơ Công an tỉnh. Việc chuyển hồ sơ bằng văn bản điện tử đòi hỏi phải scan hồ sơ nhưng thời gian scan mỗi hồ sơ cũng trải qua nhiều bước, mất nhiều thời gian (có file pdf, excel và file ảnh JPEG). Trong khi đó, mỗi ngày Sở Tư pháp tiếp nhận khoảng 100 hồ sơ yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp, số cán bộ được giao hạn chế, phải kiêm nhiệm các việc nghiệp vụ khác nên khó khăn trong bố trí cán bộ thực hiện scan hồ sơ, chuyển phần mềm như Quy chế đề ra.

Mặt khác, trong thời gian qua, Sở Tư pháp đã thực hiện việc gửi một số hồ sơ theo Quy chế này cho Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia nhưng thời gian trả lời kết quả chậm, ảnh hưởng đến thời hạn trả kết quả cho công dân. Do đó, kính đề nghị Bộ Tư pháp chỉ đạo xem xét lại vấn đề này (UBND tỉnh Hà Tĩnh)

Trả lời:

Thời gian vừa qua, trong quá trình triển khai Quy chế số 02, theo phản ánh, kiến nghị của một số địa phương về việc chuyển hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP bằng cách scan các thông tin trên Phần mềm tra cứu, xác minh thông tin LLTP, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Bộ Tư pháp đã hướng dẫn các địa phương giảm các giấy tờ khi chuyển hồ sơ yêu cầu tra cứu, xác minh thông tin. Hiện nay Sở Tư pháp chỉ phải scan một số loại giấy tờ cần thiết cho việc tra cứu, như (1) Tờ khai yêu cầu cấp Phiếu LLTP; (2) Chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu; (3) Phiếu yêu cầu tra cứu, xác minh thông tin lên Phần mềm tra cứu, xác minh thông tin LLTP. Do đó, hầu hết các Sở Tư pháp tỉnh/thành đều thực hiện việc scan hồ sơ và chuyển lên Phần mềm một cách nhanh chóng, thuận lợi. Trong đó, trung bình mỗi ngày, Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh scan và chuyển hồ sơ lên Phần mềm từ 600 đến hơn 700 hồ sơ, Sở Tư pháp thành phố Hà Nội từ 300 đến hơn 400 hồ sơ, nhiều tỉnh còn lại có số lượng hồ sơ trong khoảng 100 hồ sơ…

Riêng đối với Sở Tư pháp và Công an tỉnh Hà Tĩnh chưa thực hiện Quy chế số 02.

Vì vậy, đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh có chỉ đạo Sở Tư pháp và Công an tỉnh thực hiện nghiêm túc Quy chế 02 đã được triển khai theo chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tư pháp và Lãnh đạo Bộ Công an, đặc biệt, đề nghị Sở Tư pháp chấm dứt việc trích chuyển kinh phí tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu LLTP cho Công an tỉnh, trái với quy định tại Thông tư số 244/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí cung cấp thông tin LLTP.

5. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm triển khai Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp điện tử để hỗ trợ khắc phục tình trạng tồn động thông tin lý lịch tư pháp chưa được lập cơ sở dữ liệu tại các Sở Tư pháp (UBND Tp Hồ Chí Minh)

Đề nghị Bộ Tư pháp có giải pháp xây dựng Đề án giải quyết thông tin án tích còn tồn đọng để phục vụ kịp thời công tác tra cứu, giải quyết thủ tục hành chính cấp Phiếu LLTP(UBND tỉnh Sơn La)

          Trả lời:

Đối với việc giải quyết thông tin án tích còn tồn đọng, Bộ Tư pháp đang triển khai thí điểm giải pháp tự động hóa trong công tác quản lý, vận hành Cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu LLTP, (hiện nay tỉnh Bắc Ninh đang triển khai thí điểm giải pháp này). Giải pháp tự động hóa với các tính năng tự động nhập dữ liệu, bảo đảm thông tin LLTP được cập nhật vào Cơ sở dữ liệu LLTP kịp thời, chính xác Bảo đảm giải quyết triệt để tình trạng tồn đọng thông tin LLTP. UBND thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Sơn La có thể đề nghị Bộ Tư pháp cho thực hiện thí điểm giải pháp tự động hóa công tác quản lý, vận hành Cơ sở dữ liệu LLTP tại địa bàn.

6. Về triển khai Quy chế 02/QCPH-TTLLTPQG-C53 ngày 29/6/2018 của Trung tâm LLTPQG và Cục hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát phối hợp tra cứu xác minh thông tin LLTP để cấp Phiếu LLTP (sau đây gọi tắt là Quy chế 02):

- Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Quy chế 02, “Giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu LLTP ... là giải pháp điện tử hóa việc chuyển Hồ sơ yêu cầu tra cứu, xác minh ... và tiếp nhận kết quả tra cứu, xác minh có thông tin lý lịch tư pháp...”, theo đó, việc gửi hồ sơ và nhận kết quả được thực hiện trên môi trường mạng thông qua Phần mềm Hỗ trợ tra cứu xác minh của Trung tâm LLTPQG.

- Theo Công văn số 135/TTLLTPQG ngày 15/3/2019 của Trung tâm LLTPQG: bảo đảm từ ngày 01/4/2019, “63/63 Sở Tư pháp trên toàn quốc thực hiện công tác tra cứu xác minh thông tin để cấp Phiếu LLTP theo đúng quy định tại Quy chế 02”, và “PV06 không nhận hồ sơ yêu cầu tra cứu xác minh thông tin bằng văn bản giấy từ Sở Tư pháp, việc tiếp nhận, tra cứu và trả kết quả hoàn toàn thông qua đường truyền mạng”.

Tuy nhiên tại Khánh Hòa, từ tháng 01/2018 đến nay, Sở Tư pháp và Phòng hồ sơ nghiệp vụ (Công an tỉnh) đã thực hiện ứng dụng giải pháp “điện tử hóa việc chuyển hồ sơ” trong việc gửi hồ sơ và nhận kết quả xác minh hoàn toàn trên đường truyền mạng thông qua Phần mềm Một cửa điện tử của tỉnh[1], chấm dứt hoàn toàn phương thức chuyển hồ sơ qua đường công văn. Việc tổ chức triển khai thời gian qua đã đi vào ổn định, đảm bảo đúng quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính của Chính phủ (giảm bớt thời gian, công sức, chi phí luân chuyển hồ sơ; tỷ lệ hồ sơ trễ hẹn chỉ chiếm 0,1%[2]).

Hiện nay, để giải quyết hồ sơ, công chức đang phải thực hiện thao tác cập nhật xử lý trên 02 Phần mềm khác nhau[3]:

- Phần mềm Một cửa điện tử của tỉnh: thực hiện tiếp nhận hồ sơ, scan lưu dữ liệu TTHC đầu vào lên Phần mềm; cập nhật xử lý các bước giải quyết TTHC theo quy trình nội bộ cho đến khi giao trả kết quả kết thúc quy trình[4]. Theo Phần mềm này, các cá nhân được giao thực hiện nhiệm vụ cụ thể trong quy trình giải quyết thuộc Sở Tư pháp và Phòng hồ sơ nghiệp vụ - Công an tỉnh phải thực hiện cập nhật sau khi hoàn thành bước xử lý. Bên cạnh đó, người yêu cầu cấp Phiếu LLTP có thể sử dụng mã hồ sơ được cấp để tra cứu tình trạng giải quyết hồ sơ trên Trung tâm dịch vụ hành chính công trực tuyến của tỉnh (hồ sơ đang được giải quyết đến bước nào? Ở cơ quan nào?...).

- Phần mềm LLTP dùng chung: thực hiện nhập tiếp nhận yêu cầu cấp Phiếu; in Phiếu yêu cầu xác minh; cập nhật kết quả tra cứu xác minh từ các cơ quan liên quan; tổng hợp tình trạng án tích; in Phiếu LLTP.

Như vậy, nếu triển khai Quy chế 02, công chức giải quyết TTHC sẽ phải thực hiện thao tác, cập nhật xử lý hồ sơ cùng lúc trên 03 Phần mềm (thêm Phần mềm Hỗ trợ tra cứu xác minh của Trung tâm LLTPQG). Điều này dẫn đến khối lượng công việc tăng lên, gây quá tải khi thực hiện nhiệm vụ, đặc biệt là trong bối cảnh thực hiện chủ trương tinh giản biên chế, không được phép điều động viên chức từ đơn vị sự nghiệp hỗ trợ, không được sử dụng lao động hợp đồng làm công tác chuyên môn như hiện nay. Số lượng hồ sơ phát sinh nhiều, có xu hướng gia tăng, trong khi đó biên chế bố trí cho công tác LLTP (bao gồm: công tác xây dựng cơ sở dữ liệu; công tác cấp Phiếu LLTP) là 01 người.

Qua nghiên cứu đánh giá hiệu quả thực hiện cho thấy, giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin đang thực hiện tại Khánh Hòa đã đáp ứng mục đích, yêu cầu của Quy chế 02. Do đó, để giảm tải khối lượng công việc, trước mắt, đề nghị Bộ Tư pháp cho phép các địa phương đã ứng dụng giải pháp “điện tử hóa việc chuyển hồ sơ” trong việc gửi hồ sơ và nhận kết quả xác minh giữa Sở Tư pháp và Phòng hồ sơ nghiệp vụ (thông qua Phần mềm một cửa điện tử của địa phương) tạm thời chưa triển khai Quy chế 02 (thông qua Phần mềm của Trung tâm LLTPQG) cho đến khi có giải pháp kỹ thuật (kết nối các Phần mềm giữa Trung ương và địa phương) đảm bảo mục tiêu ứng dụng công nghệ thông tin nhằm giảm bớt thời gian, công sức, nhân lực trong thực hiện nhiệm vụ (UBND tỉnh Khánh Hòa) 

Trả lời:

Quy chế số 02 được xây dựng trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Công an và Lãnh đạo Bộ Tư pháp, theo đúng tinh thần tại Điều 47 Luật Lý lịch tư pháp và Điều 25 Nghị định số 111/2010/NĐ-CP, theo đó: đối với thông tin có trước ngày 01/7/2010 sẽ tra cứu tại Cơ sở dữ liệu của ngành Công an, đối với thông tin có sau ngày 01/7/2010 sẽ tra cứu tại Cơ sở dữ liệu của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp. Việc chỉ tra cứu thông tin để cấp Phiếu LLTP tại cơ quan Công an là không đúng quy định. Ngoài ra, theo báo cáo sơ kết triển khai Quy chế số 01 thấy rằng: hầu hết hiện nay Sở Tư pháp hoàn toàn căn cứ vào Tờ khai yêu cầu cấp Phiếu LLTP để xác định trường hợp nào cư trú 01 nơi, trường hợp nào cư trú nhiều nơi để phân loại gửi tra cứu, xác minh thông tin. Trên thực tế, nhiều trường hợp khi làm Tờ khai yêu cầu cấp Phiếu, người yêu cầu cấp Phiếu không ghi hoặc che dấu những nơi đã từng cư trú mà chỉ khai 1 nơi cư trú nhằm mục đích làm Phiếu LLTP nhanh hơn hoặc che dấu quá trình phạm tội ở địa phương khác. Nhiều trường hợp tra cứu ở địa phương không có hồ sơ, tài liệu nhưng khi tra cứu tại V06 hoặc Trung tâm thì có tài liệu phạm tội ở nơi khác; trường hợp đương sự bị Tòa án tuyên trước thời điểm 01/7/2010 nhưng quá trình thi hành án sau thời điểm này, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp đã lập LLTP.

Do đó, bên cạnh việc hỗ trợ các Sở Tư pháp cấp Phiếu LLTP bảo đảm sớm và đúng thời hạn, Quy chế 02 còn là giải pháp thực hiện nhiệm vụ của Bộ luật hình sự 2015 giao cho Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP (Trung tâm LLTP quốc gia và các Sở Tư pháp) cấp Phiếu LLTP cho các trường hợp đương nhiên được xóa tích đối với việc xác minh hành vi phạm tội mới, đặc biệt sự chính xác của nội dung Phiếu LLTP (thực tế sau 3 tháng triển khai Quy chế 02, Trung tâm tích hợp kết quả của Cục Hồ sơ nghiệp vụ và Phòng Hồ sơ nghiệp vụ thì hầu hết trường hợp phạm tội ở ngoài tỉnh thì Phòng Hồ sơ nghiệp vụ không có thông tin).

Hơn nữa, theo quy định tại Thông tư số 244/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí cung cấp thông tin LLTP, Sở Tư pháp trích chuyển kinh phí tra cứu, xác minh cho Cơ quan Hồ sơ nghiệp vụ thông qua Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia. Vì vậy, để có căn cứ nhận kinh phí này cũng nhưng trích chuyển cho Cơ quan Hồ sơ nghiệp vụ (Cục Hồ sơ nghiệp vụ và Phòng Hồ sơ nghiệp vu), Sở Tư pháp phải chuyển Hồ sơ lên Phần mềm theo quy định của Quy chế 02 để Trung tâm rà soát, đối chiếu và trích chuyển.

7. Khoản 3 Điều 5 Thông tư 32/2017/TT-BTTTT ngày 15/11/2017 của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến và bảo đảm khả năng truy cập thuận tiện đối với trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan Nhà nước quy định đối với thủ tục hành chính cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, người dân có thể nộp, gửi hồ sơ trực tuyến đến cơ quan cung cấp dịch vụ và nhận kết quả qua dịch vụ bưu chính. Đồng thời, quy định pháp luật về xử phạt hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi sử dụng giấy tờ giả, làm lộ bí mật đời tư của cá nhân…, liên quan đến lý lịch tư pháp cũng đã được ban hành từ lâu, điều chỉnh các hành vi vi phạm trong thực tiễn nếu có. Đặc biệt ở Khánh Hòa, nếu người dân nộp hồ sơ trực tuyến trên Trung tâm dịch vụ hành chính công trực tuyến thì mỗi người dân chỉ được cấp duy nhất một tài khoản người dùng, đảm bảo được tính bảo mật thông tin của người nộp thủ tục hành chính. Công tác phối hợp giữa Sở Tư pháp và Công an tỉnh trong việc xác minh lý lịch tư pháp được thực hiện hoàn toàn trên môi trường mạng từ ngày 01/01/2018 đến nay.

Do đó, để thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, Sở Tư pháp kiến nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu phương án cho phép người dân khi nộp hồ sơ lý lịch tư pháp trực tuyến mức độ 3 có thể nhận kết quả qua dịch vụ bưu chính mà không phải gửi hồ sơ gốc đến Sở Tư pháp (UBND tỉnh Khánh Hòa)

Trả lời:

Theo Quyết định số 877/QĐ-TTg ngày 18/7/2018 của Thủ tướng chính phủ ban hành Danh mục dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 để các Bộ, ngành, địa phương thực hiện trong các năm 2018 – 2019, Sở Tư pháp có nhiệm vụ cấp Phiếu LLTP đáp ứng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3. Trong đó, dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 đã được quy định cụ thể tại Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước; Thông tư số 32/2017/TT-BTTT ngày 15/11/2017 của Bộ Thông tin và truyền thông về việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến và bảo đảm khả năng truy cập thuận tiện đối với trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước, theo đó, dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 là: dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 và cho phép người sử dụng điền và gửi trực tuyến các văn bản đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ. Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng. Việc thanh toán phí, lệ phí (nếu có) và nhận kết quả được thực hiện trực tiếp tại cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ hoặc qua dịch vụ bưu chính”.

Như vậy, việc gửi hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP hoàn toàn có căn cứ thực hiện; nộp phí cung cấp thông tin LLTP có thể trực tiếp hoặc gửi qua bưu chính. Riêng đối với việc trả kết quả cấp Phiếu LLTp, do đặc thù của thông tin LLTP là bí mật đời tư được pháp luật bảo vệ, nên để xác thực chính xác người gửi hồ sơ trực tuyến có đúng là người được cấp Phiếu LLTP hay không thì Sở Tư pháp phải trả trực tiếp kết quả cho người được cấp Phiếu LLTP. Khi đến nhận kết quả, cá nhân phải mang giấy tờ tùy thân (chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu) bản chính để Sở Tư pháp xác thực và trả kết quả, không phải nộp cho Sở Tư pháp hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP bản giấy.

Trường hợp cá nhân có yêu cầu nhận kết quả qua dịch vụ bưu chính thì hướng dẫn cho người dân thực hiện nộp hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP theo thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua dịch vụ bưu chính. Không thực hiện việc nộp hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp trực tuyến, nhận kết quả qua dịch vụ bưu chính.

8. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm triển khai sửa đổi, bổ sung Luật LLTP và các văn bản có liên quan theo hướng quy định việc đương nhiên xóa án tích là một thủ tục hành chính, cần tách biệt với thủ tục cấp Phiếu LLTP, theo đó thời hạn đương nhiên xóa án tích quy định phù hợp thực tế, quy định về cơ chế cụ thể bảo đảm cho việc phối hợp cung cấp thông tin LLTP của các cơ quan có liên quan được nhanh chóng, thuận lợi (UBND thành phố Hồ Chí Minh)

- Đề nghị Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung về thời hạn cấp Phiếu LLTP đối với trường hợp phải xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích quy định tại Khoản 1, Điều 48 Luật LLTP theo hướng: “1. Thời hạn cấp Phiếu LLTP không quá 10 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ. Trường hợp người được cấp Phiếu LLTP là công dân Việt Nam đã cư trú ở nhiều nơi hoặc có thời gian cư trú ở nước ngoài, người nước ngoài quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 47 của Luật này thì thời hạn không quá 15 ngày; trường hợp phải xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích quy định tại khoản 3 Điều 44 của Luật này thì thời hạn được kéo dài thêm không quá 25 ngày”(UBND tỉnh Phú Yên)

- Đề nghị tiếp tục hoàn thiện việc xây dựng thể chế về LLTP, trong đó chú trọng đến việc rà soát, sửa đổi các quy định pháp luật có liên quan đến LLTP. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm nghiên cứu, sửa đổi bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về LLTP phù hợp với thực tiễn công tác LLTP hiện nay và lộ trình thực hiện Chiến lược phát triển LLTP đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (UBND tỉnh Yên Bái).

- Đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu trình Chính phủ đề nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn thi hành, để phù hợp với các quy định của Bộ Luật hình sự và Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 Đồng thời trình Chính phủ ban hành quy chế phối hợp giữ các bộ, ngành có liên quan đối với việc xác minh và trả lời kết quả xác minh thông tin trong bản án, như chấp hành xong hình phạt, án phí, có phạm tội mới trong thời hạn quy định,...để thực hiện việc xóa án tích cho công dân theo đúng quy định (UBND tỉnh Đồng Tháp)

- Theo quy định tại Điu 369 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Tòa án chỉ cấp giấy chứng nhận xóa án tích cho các trường hợp người bị kết án v các tội được quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật Hình sự năm 2015, các tội khác giao trách nhiệm cho cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu LLTP cập nhật thông tin v tình hình án tích của người bị kết án và cấp Phiếu LLTP khi có yêu cầu. Luật LLTP chưa quy định v trình tự, thời gian, hồ sơ và cơ chế phối hợp xác minh trong trường hợp này; việc xác minh xóa án tích phải xác minh tại nhiu cơ quan, đơn vị khác nhau dẫn tới việc thụ lý hồ sơ, cấp Phiếu LLTP cho các trường hợp này không bảo đảm thời gian theo quy định. Đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, tham mưu sửa đổi, bổ sung Luật LLTP và các văn bản có liên quan. Trước mắt cần có hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục, hồ sơ thực hiện trách nhiệm quy định tại Điều 369 Bộ luật Tố tụng hình sự để khắc phục triệt để tình trạng cấp Phiếu LLTP chậm hẹn cho các trường hợp trên (UBND tỉnh Lạng Sơn)

- Đề nghị Bộ Tư pháp sớm tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật LLTP và văn bản hướng dẫn thi hành cho thống nhất, phù hợp với các quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Thi hành án hình sự năm 2010, Luật Phí, lệ phí năm 2015… về xóa án tích, xác minh điều kiện được xóa án tích, thời hạn cấp Phiếu LLTP trong Luật LLTP... Đề nghị Bộ Tư pháp sớm thay đổi quy định về đối tượng cấp phiếu LLTP số 2, thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và việc tái hòa nhập cộng đồng đối với người bị kết án. Nên thống nhất chỉ sử dụng một loại phiếu LLTP có nội dung như Phiếu LLTP số 1 hiện nay. Bên cạnh đó, bổ sung quy định quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân thuộc phạm vi quản lý của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị, xã hội nếu pháp luật liên quan có quy định để các cơ quan, tổ chức này thực hiện nhiệm vụ của mình. Bổ sung quy định đối tượng quản lý LLTP là pháp nhân thương mại phạm tội (STP Bà Rịa- Vũng Tàu);

- Quy định về thời hạn cấp Phiếu như hiện nay (không quá 10 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ, phức tạp không quá 15 ngày) là rất khó để đảm bảo thực hiện trong điều kiện Cơ sở dữ liệu LLTP đang trong quá trình xây dựng nên để cấp Phiếu, Sở Tư pháp phải phối hợp với nhiều cơ quan để có đủ thông tin và căn cứ cấp Phiếu theo yêu cầu. Nhất là, các trường hợp có án tích, phải phối hợp xác minh về điều kiện đương nhiên xóa án tích, gây khó khăn cho cơ quan tiếp nhận hồ sơ và cho cả người dân. Việc xác minh trong trường hợp này thường kéo dài do chờ kết quả phản hồi của các cơ quan phối hợp. Đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 48 Luật LLTP theo hướng tách riêng thời hạn giải quyết đối với trường hợp có án tích, cần phải xác minh về điều kiện đương nhiên xóa án tích (UBND tỉnh Bến Tre)

- Theo quy định, Phiếu LLTP cấp cho công dân có 02 loại Phiếu nên gây khó khăn cho người dân trong việc xác định loại Phiếu cần sử dụng, rất nhiều trường hợp đã yêu cầu cấp Phiếu số 1 sau đó đổi lại Phiếu số 2 và ngược lại. Mặt khác, do từ ngữ giải thích về loại Phiếu là thuật ngữ chuyên ngành, công dân không thể hiểu, do đó, cơ quan tiếp nhận hồ sơ phải giải thích rõ cho từng trường hợp yêu cầu để người dân hiểu, dẫn đến việc bị động trong công tác tiếp nhận hồ sơ do lượng hồ sơ yêu cầu rất nhiều. Song song đó, quy định công dân có quyền yêu cầu cấp Phiếu số 02 để biết được nội dung về LLTP của mình cũng phát sinh nhiều bất cập; quy định này nhằm đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của cá nhân. Tuy nhiên, do nội dung xác nhận tình trạng án tích ghi đầy đủ tình trạng án tích (bao gồm cả án tích đã được xóa) nên một số cơ quan đã lạm dụng quy định này, yêu cầu cá nhân phải nộp Phiếu số 02 khi làm các thủ tục (xin thị thực nhập cảnh, đăng ký kết hôn, bổ túc hồ sơ làm việc...) để nắm rõ thông tin nhân thân, tình trạng lý lịch; một số trường hợp bị từ chối cấp thị thực do từng bị kết án mặc dù án tích đã được xóa. Điều này ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong khi đó, để chứng minh cá nhân có hay không có án tích để tham gia vào giao dịch thì nội dung của Phiếu số 01 cũng đủ để đáp ứng. Về thủ tục yêu cầu cấp Phiếu không có quy định nộp hoặc xuất trình giấy tờ chứng minh mối quan hệ để ghi thông tin trong Phiếu. Tuy nhiên, nội dung Phiếu số 02 ghi thông tin về họ tên cha, mẹ, vợ hoặc chồng nên gây khó khăn cho cơ quan tiếp nhận hồ sơ. Nếu yêu cầu cung cấp giấy tờ chứng minh để ghi quan hệ cha, mẹ, vợ/chồng thì làm phát sinh thủ tục, không đúng quy định; nếu chỉ căn cứ vào Tờ khai thì cơ quan cấp Phiếu mặc nhiên thừa nhận các mối quan hệ về nhân thân của người được cấp Phiếu, trong khi đó, thông tin do người dân cung cấp không chính xác nhưng không có cơ sở kiểm chứng, nhiều trường hợp con ngoài giá thú nhưng khai thông tin về người cha hoặc chưa đăng ký kết hôn nhưng khai thông tin về người chồng/vợ…Người dân sử dụng Phiếu để thực hiện các thủ tục hành chính tiếp theo tại các cơ quan khác thì phát hiện sai thông tin. Do đó, khá nhiều trường hợp trở lại Sở Tư pháp yêu cầu cấp lại Phiếu theo giấy tờ thể hiện mối quan hệ.Đề nghị Bộ Tư pháp sớm tham mưu, đề xuất sửa đổi Luật LLTP theo hướng chỉ cấp một loại Phiếu và nội dung Phiếu không ghi họ tên cha, mẹ, vợ/chồng (UBND tỉnh Bến Tre)

Trả lời:

Thực hiện Nghị quyết số 22/2016/QH14 ngày 29/7/2016 của Quốc hội về điều chỉnh Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2016 và Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2017, Nghị quyết số 34/2017/QH14 về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2018 và điều chỉnh Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2017, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật LLTP. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật LLTP tập trung sửa đổi, bổ sung một số nội dung nhằm cập nhật các quy định mới được ban hành sau Luật LLTP hiện hành, bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ của Luật LLTP với các văn bản pháp luật khác có liên quan, đặc biệt là chế định đương nhiên xóa án tích quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; bỏ quy định về cấp Phiếu LLTP số 2 cho cá nhân, đồng thời bổ sung quy định về cung cấp thông tin LLTP theo yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; nâng cao chất lượng của Cơ sở dữ liệu LLTP nhằm đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới... Những đề xuất, kiến nghị của UBND các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương trên đây đã được thể hiện tại dự thảo Luật sửa đổi này.

Tuy nhiên,  Ủy ban Tư pháp có Báo cáo thẩm tra số 791/BC-UBTP14 ngày 03/8/2017, trong đó, Ủy ban Tư pháp cho rằng do Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi căn bản với việc bổ sung quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, vì vậy việc nghiên cứu, bổ sung quy định về án tích của pháp nhân thương mại vào dự thảo Luật là yêu cầu bắt buộc. Trong khi đó các thông tin về tình trạng thi hành án đối với pháp nhân thương mại và nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong việc cung cấp thông tin về thi hành án phải được quy định trong Luật Thi hành án hình sự. Trên cơ sở ý kiến của Ủy ban Tư pháp, để bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, ngày 07/9/2017, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ ký Tờ trình số 378/TTr-CP về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật LLTP Chính phủ đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội cho phép lùi thời hạn trình dự án Luật này.

Hiện nay, Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án hình sự được thông qua, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu, đề xuất sửa đổi Luật LLTP vào thời điểm thích hợp.

Tuy nhiên, trước mắt, để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nêu trên để khắc phục tình trạng chậm cấp Phiếu LLTP, Trung tâm LLTP quốc gia có Công văn số 558/TTLLTPQG-HCTH ngày 26/12/2018 về việc hướng dẫn nghiệp vụ LLTP, theo đó Công văn này đã hướng dẫn cụ thể về những thủ tục cấp Phiếu cho đối tượng đương nhiên được xóa án tích, trình tự, thủ tục, hồ sơ cấp Phiếu LLTP cho trường hợp đương nhiên được xóa án tích; nghiệp vụ tra cứu, xác minh thông tin LLTP, nghiệp vụ xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích … trong một số trường hợp đặc biệt.

Đặc biệt, để đảm bảo đúng thời hạn cấp Phiếu LLTP cho người dân cũng như giúp cho các Sở Tư pháp trong các trường hợp xác minh điều kiện đương nhiên xóa án tích, xác minh hành vi phạm tội mới, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát, Bộ Công an xây dựng Quy chế số 02/QCPH-TTLLTPQG-C53 phối hợp tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu LLTP, có hiệu lực từ ngày 01/01/2019. Theo đó, Sở Tư pháp sẽ không cần phải phân loại hồ sơ, tiến hành tra cứu đồng thời tại 03 cơ quan: Trung tâm LLTP quốc gia - Cục Hồ sơ nghiệp vụ, Bộ Công an – Phòng Hồ sơ nghiệp vụ, Công an tỉnh trên đường truyền mạng qua Phần mềm Hỗ trợ tra cứu, xác minh, thông tin để cấp Phiếu LLTP. V06, Phòng Hồ sơ nghiệp vụ có trách nhiệm trả lời kết quả trong thời hạn 5 ngày làm việc, trường hợp có thông tin đến việc khởi tố, kết án thì thời hạn 09 ngày làm việc và cung cấp các bản photo các tài liệu có liên quan như bản án, quyết định thi hành án, Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù…, bảo đảm độ chính xác của thông tin, qua đó giúp cho Sở Tư pháp trả kết quả sớm hoặc đúng thời hạn cấp Phiếu LLTP, rút ngắn thời hạn cấp Phiếu LLTP theo tinh thần cải cách hành chính của địa phương.

Mặt khác, đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố tiếp tục chỉ đạo đối với cơ quan Công an và đề nghị cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát tại địa phương thực hiện tốt hơn nữa các quy định của pháp luật về LLTP, bảo đảm các cơ quan này cung cấp thông tin LLTP về án tích đầy đủ cho Sở Tư pháp để xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu LLTP; đặc biệt chỉ đạo Sở Tư pháp và Công an tỉnh phối hợp chặt chẽ với Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia trong triển khai thực hiện Quy chế số 02/QCPH-TTLLTPQG-C53 ngày 29/6/2018 giữa Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Bộ Tư pháp và Cục Hồ sơ nghiệp vụ, Bộ Công an phối hợp tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu LLTP.

9. Đề nghị Bộ Tư pháp xem xét, thu hẹp đối tượng bị coi là có án tích, vì khoản 2 Điều 69 và Điều 107 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định 05 trường hợp người bị kết án không bị coi là có án tích (STP Bà Rịa- Vũng Tàu)

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 69 và Điều 107 của Bộ luật Hình sự 2015 thì có 05 trường hợp không bị coi là có án tích bao gồm:

- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị kết án;

- Người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi  bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý;

- Người dưới 18 tuổi bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;

- Người đã thành niên bị kết án do lỗi vô ý về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng.

- Người được miễn hình phạt.

Căn cứ khoản 1 Điều 4 Luật LLTP “LLTP được lập trên cơ sở bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, quyết định của Tòa án tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản đã có hiệu lực pháp luật”. Ngoài ra, cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu LLTP có trách nhiệm cấp Phiếu LLTP số 2 cho cơ quan tiến hành tố tụng để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử. Vì vậy, Trung tâm LLTP quốc gia và Sở Tư pháp vẫn có trách nhiệm xây dựng Cơ sở dữ liệu LLTP đối với cả những trường hợp nêu trên và cung cấp đầy đủ thông tin về bản án, quá trình thi hành án khi có yêu cầu.

10. Đề nghị Bộ Tư pháp trao đổi với Bộ Tài chính để bổ sung đối tượng là học sinh trong độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi được miễn, giảm phí cung cấp thông tin LLTP vào Thông tư số 244/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính (STP Bà Rịa- Vũng Tàu)

Trả lời:

Hiện nay, Thông tư số 244/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về việc miễn phí cung cấp thông tin LLTP cho trẻ em dưới 16 tuổi (khoản 1 Điều 5) và giảm 50% phí cung cấp thông tin LLTP cho sinh viên (Điều 4) mà chưa miễn, giảm phí cung cấp thông tin LLTP cho học sinh trên 16 tuổi. Bộ Tư pháp xin ghi nhận kiến nghị của UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu, đề nghị Bộ Tài chính bổ sung nội dung trên khi sửa đổi Thông tư số 244/2016/TT-BTC.

11. Đề nghị Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLV-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 về  hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin Lý lịch tư pháp cho phù hợp với các quy định của pháp luật và thực tế hiện nay.

Ngoài ra, xem xét sửa đổi khoản 1 Điều 26 Luật Lý lịch tư pháp là “Sở Tư pháp nơi người bị kết án thường trú lập Lý lịch tư pháp của người đó; trường hợp không xác định được nơi thường trú thì Tòa án xét xử gửi bản án về Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia lập, theo dõi  thay cho quy định hiện hành, kịp thời khắc phục khó khăn trong việc tra cứu, xác minh thông tin Lý lịch tư pháp, từ đó dẫn đến tính thiếu chính xác trong các thông tin về án tích (trong thời gian vừa qua có một số trường hợp tra cứu của Trung tâm Lý lịch tư pháp là không có án tích, nhưng Sở Tư pháp lại được công dân cung thông tin về án tích…) và không đảm bảo thời hạn cấp phiếu cho công dân khi có yêu cầu (STP Bà Rịa- Vũng Tàu)

Trả lời:

Theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp là cơ quan quản lý CSDL LLTP, có trách nhiệm tiếp nhận, kiểm tra, phân loại, xử lý thông tin LLTP, còn các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Công an... là những cơ quan phối hợp, có trách nhiệm cung cấp, tra cứu, xác minh thông tin LLTP. Việc kiểm tra, phân loại, cung cấp thông tin thuộc thẩm quyền lập LLTP cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp với những nghiệp vụ đặc thù. Trường hợp, giao cho cơ quan tòa án phân loại cung cấp sẽ gây khó khăn cho cơ quan tòa án trong việc bảo đảm cung cấp thông tin theo yêu cầu của Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ngoài ra, để đảm bảo thông tin LLTP được cung cấp đều đặn, thường xuyên, định kỳ, dưới sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh, sự phối hợp cung cấp, rà soát thông tin giữa với các cơ quan trên cùng địa bàn sẽ gặp thuận lợi hơn so với sự phối hợp giữa các cơ quan ở các tỉnh khác nhau.



[1] Một Phân hệ của Trung tâm Dịch vụ hành chính công trực tuyến tỉnh Khánh Hòa.

[2] Năm 2018, chỉ 14 hồ sơ trễ hẹn, trong đó 13 trường hợp do việc cung cấp biểu mẫu LLTP không kịp thời; 01 trường hợp do Tòa án quân sự trả lời kết quả xác minh chậm; 06 tháng đầu năm 2019 không có hồ sơ trễ hẹn.

[3] Hiện nay vẫn chưa có giải pháp kết nối giữa Phần mềm của địa phương và Phần mềm của Bộ Tư pháp. Do đó, cùng một nội dung thông tin của hồ sơ nhưng công chức phải thực hiện nhập 02 lần vào 02 Phần mềm khác nhau.

[4] Quy trình nội bộ được xây dựng theo quy định tại Nghị định số 61/2018/NĐ-CP và Thông tư số 01/2018/TT-VPCP. Theo đó, quy trình nội bộ phải được xây dựng trên cơ sở TTHC đã được công bố.

 

 

Cơ quan thiết lập Trang TTĐT: Sở Tư pháp tỉnh Nam Định. Giấy phép số 01/GP-STTTT cấp ngày 31/01/2019
Địa chỉ: 325 Đường Trường Chinh - TP. Nam Định. Điện thoại: (0228) 3849381
Bộ phận cấp phiếu Lý lịch tư pháp: 0228.3636606; Phòng Công chứng số 1: 0228.3528096
Trung tâm Dịch vụ đấu giá tài sản: 0228.3836335; Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước: 0228.3526669 
Designed by VNPT Nam Định
  
Chung nhan Tin Nhiem Mang