Lịch sử thành lập ngành Tư pháp
Cách đây 76 năm, ngày
28/8/1945 Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ
tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã ra tuyên cáo trước Quốc dân đồng bào, cũng như
toàn thế giới, về việc thành lập Nội các Thống nhất quốc gia gồm 12 bộ,
trong đó có Bộ Tư pháp do Ông Vũ Trọng Khánh làm
Bộ trưởng. Ngày 30/11/1945,
Bộ trưởng Bộ Tư pháp (ông Vũ Trọng Khánh) ban hành Nghị định số 37 -
Nghị định đầu tiên về tổ chức Bộ Tư pháp. Nghị định này gồm 04 điều, quy định
tổ chức Bộ Tư pháp gồm có một Văn phòng và 05 phòng sự vụ. Theo quy định, lúc này Bộ, Ngành
Tư pháp đảm đương các nhiệm vụ rất cơ bản về bảo đảm quyền dân chủ của con
người; xây dựng các dự án luật, sắc lệnh về hình sự, dân sự, thương sự và thủ
tục tố tụng; tổ chức các Toà án dân sự, thương mại, hình sự; thực hiện các hiệp
định tương trợ và uỷ thác tư pháp với nước ngoài; tổ chức và quản lý các chức danh
tư pháp (luật sư, đại tụng viên, hỗ giá viên, thừa phát lại).
Trong những ngày
đầu mới thành lập, Bộ Tư pháp đã kịp thời kiến nghị ban hành Sắc lệnh về việc
giữ lại các luật lệ cũ để áp dụng với điều kiện không được phương hại quyền lợi
của nhân dân và nền độc lập của đất nước; xây dựng, trình Chủ tịch nước ban
hành các văn bản về chế độ tư pháp mới, thiết lập hệ thống toà án và các
ngạch thẩm phán, tiến hành tuyển chọn những thẩm phán đầu tiên của chế độ mới.
Ngày 29/12/1946, trong bối cảnh đất nước ta bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ,
Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Thông lệnh số 12/NV-CT về tổ chức tư pháp trong
tình thế đặc biệt. Theo đó, ở mỗi khu, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đặt một Giám đốc tư
pháp để trông coi việc tư pháp trong khu và giúp ý kiến cho Uỷ ban bảo vệ khu
mỗi khi ra quyết nghị gì có liên can đến tư pháp. Giám đốc tư pháp đặt dưới
quyền kiểm soát của Ủy ban bảo vệ khu và trong trường hợp không liên lạc được
với Trung ương thì Giám đốc tư pháp đặt dưới quyền điều khiển của Ủy ban bảo vệ
khu.
Tháng
02/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Hội nghị tư pháp toàn quốc lần
thứ IV (Hội nghị diễn ra từ ngày 25-27/02/1948 tại An toàn Khu Việt Bắc). Trong
thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Trong cuộc kháng chiến này, các bạn đã góp một
phần lực lượng lớn. Từ Bộ trưởng, Thứ trưởng đến toàn thể nhân viên, ai cũng
chịu khổ, chịu khó, tận tụy hy sinh, để làm tròn nhiệm vụ. Đó là một sự vẻ vang
cho giới tư pháp ta”. Người căn dặn:“...nhiệm
vụ các bạn phải tuyệt đối trung thành với chính quyền dân chủ. Tư pháp là
một cơ quan trọng yếu của Chính quyền, cho nên càng phải tinh thần đoàn kết,
hợp tác chặt chẽ với các cơ quan khác, để tránh những mối xích mích lẫn nhau,
nó có thể vì lợi quyền nhỏ và riêng mà hại đến quyền lợi to và chung, cho cả tư
pháp và hành chính.
Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất
nhiên các bạn cần phải nêu cái gương “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” cho nhân dân noi theo”.
Ngành Tư pháp
Việt Nam ngày càng lớn mạnh và trưởng thành qua từng thời kỳ lịch sử. Ngày
10/5/1952, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Nghị định số
48-NĐ/P2 về tổ chức cơ quan trung ương Bộ Tư pháp. Theo đó, cơ quan trung
ương Bộ Tư pháp gồm có 04 đơn vị trực thuộc.
Nhiệm vụ của Bộ
Tư pháp giai đoạn này tập trung vào công việc nghiên cứu và dự thảo các luật
lệ, tham gia ý kiến vào các dự án luật lệ do bộ khác chuẩn bị, phổ biến các tài
liệu pháp lý dân chủ mới; tổ chức và xây dựng bộ máy tư pháp (Tòa án các cấp,
tư pháp xã, tư pháp vùng địch), trại giam, giáo hóa phạm nhân; nghiên cứu và đề
nghị đường lối truy tố xét xử và hòa giải, xây dựng án lệ, giải thích áp luật
áp dụng trước tòa án.
Ngày 26/10/1957,
Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư số 506-TTg về việc tổ chức các cơ quan
pháp chế. Theo đó, cơ quan pháp chế gồm có Vụ Pháp chế của Thủ tướng phủ; các
bộ phận pháp chế ở các Bộ; các bộ phận pháp chế ở các Văn phòng Ủy ban hành
chính khu, tỉnh và thành phố.
Đồng thời phân
công rõ nhiệm vụ của các bộ phận pháp chế ở các Bộ. Ngày 11/02/1960, Hội đồng
Chính phủ ban hành Nghị định số 01-CP quy định nhiệm vụ và tổ chức
của Bộ Tư pháp. Nhiệm vụ của Bộ Tư pháp được quy định thành 07 nhóm, tổ chức
của Bộ Tư pháp gồm có 05 đơn vị trực thuộc. Ngày 14/7/1960, Quốc hội khoá
II, tại kỳ họp thứ nhất, đã thông qua Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ. Theo
Luật này, trong Hội đồng Chính phủ không còn Bộ Tư pháp. Trong suốt 20 năm tiếp theo, công tác tham mưu về pháp
luật và xây dựng pháp luật của Chính phủ do ngành Pháp chế đảm trách.
Đến tháng 11/1981, trên cơ sở Nghị quyết của Bộ Chính trị, Bộ
Tư pháp được tái thành lập theo Nghị định số 143-HĐBT ngày 22/11/1981
của Hội đồng Bộ trưởng để kế thừa, mở rộng chức năng, nhiệm vụ của Uỷ ban Pháp
chế, đồng thời tiếp nhận lại nhiệm vụ quản lý các Toà án địa phương về mặt tổ
chức.
Lúc này, hệ thống
tư pháp trong cả nước gồm có Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp cấp tỉnh, Ban Tư pháp ở cấp
huyện và Ban Tư pháp ở cấp xã. Ở các Bộ, các Uỷ ban Nhà nước và một số cơ quan
khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng có Vụ Pháp chế. Ngày 04/6/1993, Chính phủ ban hành Nghị
định số 38/CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ
Tư pháp thay thế Nghị định số 143-HĐBT ngày 22/11/1981. Theo Nghị định
này, Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước thống nhất về công tác tư pháp; xây dựng và tham gia xây dựng pháp luật,
phổ biến, giáo dục pháp luật; quản lý về mặt tổ chức Toà án nhân dân địa
phương, Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực (gọi
chung là Toà án địa phương); đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý và quản lý các
công tác tư pháp khác được Chính phủ giao.
Về bộ máy, Bộ Tư pháp có 12 đơn vị giúp Bộ
trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước. Ngày 06/6/2003, Chính
phủ ban hành Nghị định số 62/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp thay thế Nghị định số 38/CP. Theo
Nghị định này, Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp
luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, hành chính tư pháp, bổ
trợ tư pháp và công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; thực hiện quản lý nhà
nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật.
Đặc biệt, ngày 16/8/2017, Chính phủ ban hành Nghị định số 96/2017/NĐ-CPquy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp thay thế
Nghị định số 22/2013/NĐ-CP. Nghị định này đánh dấu sự ổn định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ của Bộ Tư pháp cho đến ngày hôm nay.
Ngày 07/11/1995,
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 715/TTg về Ngày truyền thống Ngành
Tư pháp, trong đó tại Điều 1 quy định Hàng năm lấy ngày 28-8 là "Ngày truyền
thống của Ngành Tư pháp".
Có thể nói, trải qua những giai
đoạn lịch sử cách mạng của đất nước, ngành Tư pháp Việt Nam đã có lúc trải qua
những thăng trầm của lịch sử, song với chức năng xuyên suốt là xây dựng pháp
luật, quản lý nhà nước về công tác pháp luật, ngành Tư pháp luôn bám sát thực
tiễn trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước, kịp thời đề xuất, kiến nghị với
Đảng, Quốc hội, Chính phủ ban hành và tổ chức thi hành những chính sách pháp
luật quan trọng, xây dựng các thiết chế pháp luật, tư pháp phù hợp với nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội... Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, ngành Tư pháp Việt Nam đã
và đang từng bước đổi mới tư duy, nghiên cứu, đề xuất và tham gia xây dựng các
chiến lược quốc gia về pháp luật, tư pháp phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất
nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, nâng cao tính dự báo và chất lượng của các chương trình lập pháp, lập quy
theo các nhiệm kỳ của Quốc hội, Chính phủ, cũng như việc hoạch định chiến lược,
quy hoạch phát triển ngành Tư pháp, trở thành cơ quan tham mưu tin cậy của
Đảng, Quốc hội, Chính phủ, cấp ủy, chính quyền các cấp trong việc hoạch định và
tổ chức thực hiện pháp luật và tư pháp của đất nước trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Để ghi nhận xứng đáng những đóng góp của
Ngành Tư pháp, Đảng và Nhà nước đã tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý cho
Ngành Tư pháp: Năm 1995 được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh; năm 2010 tặng
thưởng Huân chương Sao Vàng; năm 2015 được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương
Độc lập hạng Nhất.
Đóng góp vào những thành tích
chung của ngành Tư pháp Việt Nam, Ngành Tư pháp Nam Định không ngừng được xây dựng, phát
triển và trưởng thành. Sở Tư
pháp Nam Định được thành lập từ năm 1982. Từ đó đến nay, Sở Tư pháp thường xuyên được Bộ Tư pháp, Tỉnh uỷ,
HĐND và UBND tỉnh quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và nhận được sự phối hợp, ủng hộ
giúp đỡ của các cơ quan, ban, ngành đoàn thể tỉnh, của cấp uỷ, chính quyền các
địa phương trong tỉnh cùng sự đoàn kết, nỗ lực cố gắng vượt qua khó khăn, thủ
thách của các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngành Tư pháp
tỉnh Nam Định. Hệ thống cơ quan tư pháp từ tỉnh đến cơ sở đã không ngừng được
củng cố, kiện toàn, phát triển vững mạnh cả về tổ chức bộ máy. Trong thời gian qua, Ngành Tư pháp tỉnh Nam Định luôn hoàn thành tốt các nhiệm
vụ được giao, nhiều lĩnh vực công tác của ngành đạt chất lượng, hiệu quả cao đã
góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh, quốc
phòng tại địa phương. Những đóng góp to lớn của Ngành Tư pháp tỉnh Nam Định đã được Đảng, Nhà nước ghi
nhận và trao tặng nhiều danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng cao quý cho
tập thể Sở Tư pháp và các cá nhân tiêu biểu./.