HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT ĐẤU GIÁ TÀI SẢN THI HÀNH ÁN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Căn cứ Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH ngày
11/12/2014 của Văn phòng Quốc hội;
Căn cứ Nghị định số
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một
số điều của Luật Thi hành án dân sự (gọi tắt là Nghị định số 62/2015/NĐ-CP);
Căn cứ Nghị định số
33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn một số điều của Luật Thi hành án dân sự (gọi tắt là Nghị định số
33/2020/NĐ-CP);
Căn cứ Thông tư liên
tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 quy định một số vấn đề về
thủ tịch thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
(gọi tắt là Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC).
Tình huống 1. Chị
Trần Thị Mai huyện Ý Yên có hỏi: pháp luật quy định chủ thể có thẩm quyền ký
hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản với tổ chức đấu giá? Việc ký hợp đồng dịch vụ
đấu giá tài sản được tiến hành trong thời hạn bao lâu kể từ ngày định giá? Việc
bán đấu giá được thực hiện trong thời hạn bao lâu kể từ ngày ký hợp đồng?
Trả lời:
Theo khoản 2 Điều 101 Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH
ngày 11/12/2014,
Chấp
hành viên ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản với tổ chức bán đấu giá do
đương sự thỏa thuận. Trường hợp đương sự không thỏa thuận được thì Chấp hành
viên lựa chọn tổ chức bán đấu giá để ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản.
Việc ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài
sản được tiến hành trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày định giá.
Việc bán đấu giá đối với động sản phải được
thực hiện trong thời hạn là 30 ngày, đối với bất động sản là 45 ngày, kể từ
ngày ký hợp đồng.
Tình
huống 2. Chị Phan Kim Lan huyện Vụ Bản có hỏi: việc bán đấu giá đối với tài sản
kê biên là động sản có giá trị từ trên 10.000.000 đồng và bất động sản do tổ
chức bán đấu giá thực hiện có đúng không? Chấp hành viên bán đấu giá tài sản
trong các trường hợp nào?
Trả lời:
Theo khoản 2 Điều 101 Luật Thi
hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH ngày 11/12/2014, việc bán đấu giá đối với tài
sản kê biên là động sản có giá trị từ trên 10.000.000 đồng và bất động sản do
tổ chức bán đấu giá thực hiện.
Theo khoản 3 Điều 101 Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH
ngày 11/12/2014, Chấp hành viên bán đấu giá tài sản kê biên trong các trường
hợp sau đây:
- Tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
nơi có tài sản chưa có tổ chức bán đấu giá hoặc có nhưng tổ chức bán đấu giá từ
chối ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản;
- Động sản có giá trị từ 2.000.000 đồng đến
10.000.000 đồng.
Việc bán đấu giá đối với động sản phải được
thực hiện trong thời hạn là 30 ngày, đối với bất động sản là 45 ngày, kể từ
ngày định giá hoặc từ ngày nhận được văn bản của tổ chức bán đấu giá từ chối
bán đấu giá.
Tình
huống 3. Chị Vũ Thị Kim huyện Giao Thủy có hỏi: Người phải thi hành án có quyền
nhận lại tài sản khi nào?
Trả
lời:
Theo khoản 5 Điều 101 Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH
ngày 11/12/2014, trước khi mở cuộc bán đấu giá 01 ngày làm việc, người phải thi
hành án có quyền nhận lại tài sản nếu nộp đủ tiền thi hành án và thanh toán các
chi phí thực tế, hợp lý đã phát sinh từ việc cưỡng chế thi hành án, tổ chức bán
đấu giá.
Người phải thi hành án có trách nhiệm hoàn
trả phí tổn thực tế, hợp lý cho người đăng ký mua tài sản. Mức phí tổn do các
bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tình
huống 4. Anh Đỗ Tuấn Anh huyện Hải Hậu có hỏi: Pháp luật thi hành án dân sự quy
định về việc hủy kết quả đấu giá tài sản như thế nào?
Trả
lời:
Căn cứ Điều 102 Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH
ngày 11/12/2014, việc hủy kết quả bán đấu giá tài sản được quy định như sau:
- Việc hủy kết quả bán đấu giá tài sản được
thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản; trường hợp kết
quả bán đấu giá tài sản bị hủy thì việc xử lý tài sản để thi hành án được thực
hiện theo quy định của Luật này.
- Người mua được tài sản bán đấu giá, Chấp
hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả
bán đấu giá tài sản, nếu có căn cứ chứng minh có vi phạm trong quá trình bán
đấu giá tài sản.
- Việc xử lý hậu quả và bồi thường thiệt
hại do kết quả bán đấu giá tài sản bịhủy được giải quyết theo quy định của pháp
luật.
Tình huống 5. Anh Nguyễn Văn Hợp huyện Nam Trực có hỏi: Pháp luật bảo
vệ quyền của người mua tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án
như thế nào?
Trả lời:
Theo Điều 103 Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH
ngày 11/12/2014, việc bảo vệ quyền của người mua tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi
hành án được quy định như sau:
- Người mua được tài sản bán đấu giá, người
nhận tài sản để thi hành án được bảo vệ quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản
đó.
- Trường hợp người mua được tài sản bán đấu
giá đã nộp đủ tiền mua tài sản bán đấu giá nhưng bản án, quyết định bị kháng
nghị, sửa đổi hoặc bị hủy thì cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục giao tài sản,
kể cả thực hiện việc cưỡng chế thi hành án để giao tài sản cho người mua được
tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp kết quả bán đấu giá bị hủy theo quy định
của pháp luật hoặc đương sự có thỏa thuận khác.
- Việc cưỡng chế giao tài sản cho người mua
được tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án thực hiện theo quy
định pháp luật.
Tình huống 6. Chi
cục thi hành án dân sự huyện V có hỏi: Khi tài sản đưa ra bán đấu giá lần đầu nhưng
không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì Chấp
hành viên thực hiện thủ tục tiếp theo như nào?
Trả lời:
Căn cứ khoản 1 Điều 104 Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH
ngày 11/12/2014, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông
báo của tổ chức bán đấu giá về việc tài sản đưa ra bán đấu giá lần đầu nhưng
không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì Chấp
hành viên thông báo và yêu cầu đương sự thỏa thuận về mức giảm giá tài sản.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu đương sự không thỏa
thuận hoặc thỏa thuận không được về mức giảm giá thì Chấp hành viên quyết định giảm
giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá.
Căn cứ khoản 4 Điều 104 Luật Thi hành án
dân sự số 12/VBHN-VPQH ngày 11/12/2014, đối với tài sản bán đấu giá để thi hành
các khoản nộp ngân sách nhà nước, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được
thông báo về việc tài sản đưa ra bán đấu giá nhưng không có người tham gia đấu
giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì Chấp hành viên quyết định giảm
giá để tiếp tục bán đấu giá tài sản.
Theo khoản 5 Điều 104 Luật Thi hành án dân
sự số 12/VBHN-VPQH ngày 11/12/2014, mỗi lần giảm giá không quá 10% giá khởi
điểm của lần bán đấu giá liền kề trước đó.
Tình huống 7. Chi
cục thi hành án dân sự huyện N có hỏi: Người được thi hành án có quyền nhận tài sản để trừ vào
số tiền được thi hành án không và nếu có thì khi nào? Chấp hành viên phải làm
các thủ tục gì khi Người được thi hành án đồng ý nhận tài sản để
trừ vào số tiền được thi hành án?
Trả lời:
Theo khoản 2 Điều 104 Luật Thi hành án dân sự số
12/VBHN-VPQH ngày 11/12/2014, người được thi hành án có quyền nhận tài sản để
trừ vào số tiền được thi hành án trong
trường hợp: Từ sau lần giảm giá thứ hai trở đi mà không có người tham gia đấu
giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành.
Khi người được thi hành án đồng ý nhận tài sản để trừ
vào số tiền được thi hành án, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được
thông báo về việc không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá
không thành thì Chấp hành viên thông báo cho người phải thi hành án biết.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày người phải thi hành
án nhận được thông báo về việc người được thi hành án đồng ý nhận tài sản để
thi hành án, nếu người phải thi hành án không nộp đủ số tiền thi hành án và chi
phí thi hành án để lấy lại tài sản đưa ra bán đấu giá thì Chấp hành viên giao
tài sản cho người được thi hành án. Đối với tài sản là bất động sản, động sản
phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng thì Chấp hành viên ra quyết định giao tài
sản cho người được thi hành án để làm thủ tục đăng ký, cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu, sử dụng tài sản đó cho người được thi hành án. Người phải thi
hành án, người đang quản lý, sử dụng tài sản không tự nguyện giao tài sản cho
người được thi hành án thì bị cưỡng chế thi hành án.
Tình huống 8. Chi cục thi hành án dân sự huyện T có
hỏi: Trường hợp từ sau lần giảm giá thứ hai trở đi mà không có người
tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành nhưng người được thi
hành án không đồng ý nhận tài sản để thi hành án thì Chấp hành viên thực hiện
thủ tục tiếp theo như nào?
Trả lời:
Theo khoản 3 Điều 104 Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH
ngày 11/12/2014, Trường hợp người được thi hành án không đồng ý nhận tài sản để
thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán
đấu giá. Nếu giá trị tài sản đã giảm bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế mà
người được thi hành án vẫn không nhận để trừ vào số tiền được thi hành án thì
tài sản được giao lại cho người phải thi hành án quản lý, sử dụng. Người phải
thi hành án không được đưa tài sản này tham gia các giao dịch dân sự cho đến
khi họ thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án.
Theo khoản 5 Điều 104 Luật Thi hành án dân
sự số 12/VBHN-VPQH ngày 11/12/2014, Mỗi lần giảm giá không quá 10% giá khởi
điểm của lần bán đấu giá liền kề trước đó.
Tình huống 9. Anh
Trần Văn Hà huyện Hải Hậu có hỏi: Cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm cung cấp
những văn bản, giấy tờ nào cho người mua tài sản thi hành án, người nhận tài
sản để trừ vào số tiền được thi hành án để người mua tài sản thi hành án, người
nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án làm thủ tục đăng ký, chuyển
quyền sở hữu, sử dụng tài sản?
Trả lời:
Theo khoản 2, khoản 3 Điều 106 Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH
ngày 11/12/2014, cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm cung cấp đầy đủ
những văn bản, giấy tờ sau cho người mua tài sản thi hành án, người nhận tài
sản để trừ vào số tiền được thi hành án.
- Văn bản đề nghị của cơ quan thi hành án
dân sự;
- Bản sao bản án, quyết định;
- Quyết định thi hành án;
- Quyết định kê biên tài sản, nếu có;
- Văn bản bán đấu giá thành hoặc quyết định
giao tài sản, biên bản giao nhận tài sản để thi hành án;
- Giấy tờ khác có liên quan đến tài sản.
Tình huống 10. Chị
Hà Tâm Anh huyện Xuân Trường có hỏi: Trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi cấp giấy
chứng nhận cho người mua, người nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành
án trong trường
hợp tài sản là quyền sử dụng đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mà
không có hoặc không thu hồi được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc tài sản không có giấy tờ đăng
ký hoặc không thu hồi được giấy tờ đăng ký?
Trả lời:
Theo khoản 2 Điều 106 Luật Thi hành án dân sự số
12/VBHN-VPQH ngày 11/12/2014, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm làm
thủ tục đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng cho người mua, người nhận tài sản
để trừ vào số tiền được thi hành án.
Theo khoản 4 Điều 106 Luật Thi
hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH ngày 11/12/2014, trường hợp tài sản là quyền sử
dụng đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mà không có hoặc không thu hồi
được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất thì cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm cấp Giấy chứng nhận theo
quy định của Chính phủ.
Theo khoản 5 Điều 106 Luật Thi
hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH ngày 11/12/2014, đối với tài sản không có giấy
tờ đăng ký hoặc không thu hồi được giấy tờ đăng ký thì cơ quan có thẩm quyền
đăng ký có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài
sản.
Tình huống 11. Chị Phạm Thị
Nhạn huyện Vụ Bản có hỏi: Pháp luật quy định quyền sử dụng đất được
kê biên, bán đấu giá để thi hành án như thế nào?
Trả lời:
Theo
khoản 1 và khoản 2 Điều 110 Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH
ngày 11/12/2014 quy định:
Chấp hành viên chỉ kê biên quyền sử dụng
đất của người phải thi hành án thuộc trường hợp được chuyển quyền sử dụng theo
quy định của pháp luật về đất đai.
Người phải thi hành án chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mà thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai hoặc thuộc diện quy hoạch
phải thu hồi đất, nhưng chưa có quyết định thu hồi đất thì vẫn được kê biên, xử
lý quyền sử dụng đất đó.
Tình huống 12. Anh
Bùi Văn Minh huyện Trực Ninh có hỏi: Trường hợp tài sản gắn liền với đất đã kê biên thuộc
sở hữu của người khác mà tài sản có trước khi người phải thi hành án nhận được
quyết định thi hành án thì việc xử lý
tài sản gắn liền với đất đã kê biên được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Theo
điểm a khoản 1 Điều 113 Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH
ngày 11/12/2014, trường hợp tài sản gắn liền với đất đã kê biên thuộc sở hữu
của người khác mà tài sản có trước khi người phải thi hành án nhận được quyết
định thi hành án thì việc xử lý tài sản
gắn liền với đất đã kê biên được thực hiện như sau:
Đối với tài sản có trước khi người phải thi
hành án nhận được quyết định thi hành án thì Chấp hành viên yêu cầu người có
tài sản tự nguyện di chuyển tài sản để trả quyền sử dụng đất cho người phải thi
hành án. Trường hợp người có tài sản không tự nguyện di chuyển tài sản thì Chấp
hành viên hướng dẫn cho người có tài sản và người phải thi hành án thỏa thuận
bằng văn bản về phương thức giải quyết tài sản. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ
ngày hướng dẫn mà họ không thỏa thuận được thì Chấp hành viên xử lý tài sản đó
cùng với quyền sử dụng đất để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người phải
thi hành án và người có tài sản gắn liền với đất.
Trường hợp người có tài sản là người thuê
đất hoặc nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của người phải thi hành án mà
không hình thành pháp nhân mới thì người có tài sản được quyền tiếp tục ký hợp
đồng thuê đất, hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất với người trúng đấu giá,
người nhận quyền sử dụng đất trong thời hạn còn lại của hợp đồng mà họ đã ký
kết với người phải thi hành án. Trường hợp này, trước khi xử lý quyền sử dụng
đất, Chấp hành viên có trách nhiệm thông báo cho người tham gia đấu giá, người
được đề nghị nhận quyền sử dụng đất về quyền được tiếp tục ký hợp đồng của
người có tài sản gắn liền với đất.
Tình huống 13. Chị
Trần Thị Mai Ngọc huyện Nghĩa Hưng có hỏi: Trường hợp tài sản gắn liền với đất đã kê
biên thuộc sở hữu của người khác mà tài sản có sau khi người phải thi hành án
nhận được quyết định thi hành án thì việc xử lý tài sản gắn liền với đất đã kê biên được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Theo
điểm b khoản 1 Điều 113 Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH
ngày 11/12/2014, trường hợp tài sản gắn liền với đất đã kê biên thuộc sở hữu
của người khác mà tài sản có sau khi người phải thi hành án nhận được quyết
định thi hành án thì việc xử lý tài sản
gắn liền với đất đã kê biên được thực hiện như sau:
Chấp hành viên yêu cầu người có tài sản tự
nguyện di chuyển tài sản để trả lại quyền sử dụng đất cho người phải thi hành
án. Sau thời hạn 15 ngày, kể từ ngày yêu cầu, mà người có tài sản không di
chuyển tài sản hoặc tài sản không thể di chuyển được thì Chấp hành viên xử lý
tài sản đó cùng với quyền sử dụng đất.
Nếu người có tài sản không di chuyển tài
sản hoặc tài sản không thể di chuyển được thì tài sản phải bị tháo dỡ. Chấp
hành viên tổ chức việc tháo dỡ tài sản, trừ trường hợp người nhận quyền sử dụng
đất hoặc người trúng đấu giá quyền sử dụng đất đồng ý mua tài sản.
Tình huống 14. Anh Vũ Tuấn Đạt huyện Hải Hậu có hỏi: Trường
hợp cưỡng chế giao nhà là nhà ở duy nhất của người phải thi hành án cho người
mua được tài sản bán đấu giá, nếu xét thấy sau khi thanh toán các khoản nghĩa
vụ thi hành án mà người phải thi hành án không còn đủ tiền để thuê nhà hoặc tạo
lập nơi ở mới thì Chấp hành viên xử lý như thế nào?
Trả lời:
Theo khoản 5 Điều 115 Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH
ngày 11/12/2014, trường hợp cưỡng chế giao nhà là nhà ở duy nhất của người phải
thi hành án cho người mua được tài sản bán đấu giá, nếu xét thấy sau khi thanh
toán các khoản nghĩa vụ thi hành án mà người phải thi hành án không còn đủ tiền
để thuê nhà hoặc tạo lập nơi ở mới thì trước khi làm thủ tục chi trả cho người
được thi hành án, Chấp hành viên trích lại từ số tiền bán tài sản một khoản
tiền để người phải thi hành án thuê nhà phù hợp với giá thuê nhà trung bình tại
địa phương trong thời hạn 01 năm. Nghĩa vụ thi hành án còn lại được tiếp tục
thực hiện theo quy định của Luật này.
Tình huống 15. Chị
Hoàng Thị Mai huyện Mỹ Lộc có hỏi: Cơ quan có thẩm quyền xử lý vật chứng,
tài sản bị tuyên tịch thu, sung quỹ nhà nước?
Trả lời:
Theo
Điều 124 Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH ngày
11/12/2014, đối với vật chứng, tài sản tạm giữ mà bản án, quyết định tuyên tịch
thu, sung quỹ nhà nước thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định thi
hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản và tiến hành
giao vật chứng, tài sản tạm giữ đó cho cơ quan tài chính cùng cấp. Đối với tài
sản tịch thu, sung quỹ nhà nước do cơ quan thi hành án cấp quân khu thi hành
thì chuyển cho cơ quan tài chính cấp tỉnh nơi cơ quan thi hành án cấp quân khu
có trụ sở.
Theo Điều 32 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, cơ quan tài chính cùng cấp với cơ quan thi hành án
dân sự đang tổ chức thi hành án, cơ quan tài chính cấp tỉnh nơi có trụ sở với
cơ quan thi hành án cấp quân khu hoặc nơi đang lưu giữ vật chứng, tài sản có
trách nhiệm tiếp nhận để xử lý vật chứng, tài sản bị tuyên tịch thu, sung quỹ
nhà nước theo quy định tại Điều 124 Luật Thi hành án dân sự và pháp luật về xác
lập quyền sở hữu của Nhà nước về tài sản và quản lý, xử lý tài sản được xác lập
quyền sở hữu của Nhà nước.
Tình huống 16.
Chị Trần Thị Hòa huyện Xuân Trường có hỏi: Chủ sở hữu chung được quyền ưu tiên mua
phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản thuộc sở hữu chung
không? Nếu có thì vào thời điểm nào? Trong trường hợp có nhiều chủ sở hữu chung đề nghị mua phần
tài sản của người phải thi hành án theo giá đã định thì giải quyết như nào?
Trả lời:
Căn cứ khoản 3 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH
ngày 11/12/2014, trước khi bán tài sản lần đầu đối với tài sản thuộc sở hữu
chung, Chấp hành viên thông báo và định thời hạn cho chủ sở hữu chung mua phần
tài sản của người phải thi hành án theo giá đã định trong thời hạn 03 tháng đối
với bất động sản, 01 tháng đối với động sản; đối với những lần bán tài sản tiếp
theo thì thời hạn là 15 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày
hết thời hạn ưu tiên mà chủ sở hữu chung không mua tài sản thì tài sản được bán
theo quy định tại Điều 101 của Luật này (bán đấu giá hoặc bán không qua thủ tục
đấu giá).
Căn cứ khoản 12
Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, trước khi bán đấu giá tài sản lần đầu đối với tài sản
thuộc sở hữu chung mà có nhiều chủ sở hữu chung đề nghị mua phần tài sản của
người phải thi hành án theo giá đã định thì Chấp hành viên thông báo cho các
chủ sở hữu chung đó thỏa thuận người được quyền mua. Nếu không thỏa thuận được
thì Chấp hành viên tổ chức bốc thăm để chọn ra người được mua tài sản.
Tình huống 17. Chị Trần Thị Thủy
huyện Trực Ninh có hỏi: Pháp
luật quy định thời hạn nộp tiền mua tài sản đấu giá, thời hạn bàn giao tài sản
đấu giá như thế nào?
Trả lời:
Theo khoản 12
Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, thời hạn nộp tiền mua tài sản đấu giá và
thời hạn bàn giao tài sản đấu giá được quy định như sau:
Người mua
được tài sản bán đấu giá phải nộp tiền vào tài khoản của cơ quan thi hành án
dân sự trong thời hạn không quá 30 ngày, kể từ ngày đấu giá thành và không được
gia hạn thêm.
Trong thời
hạn không quá 30 ngày, trường hợp khó khăn, phức tạp thì không quá 60 ngày, kể
từ ngày người mua được tài sản nộp đủ tiền, cơ quan thi hành án dân sự phải tổ chức việc giao tài sản cho người
mua được tài sản, trừ trường hợp có sự kiện bất khả kháng.
Tổ chức đấu
giá tài sản có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc
giao tài sản cho người mua được tài sản đấu giá. Tổ chức, cá nhân cản trở, can
thiệp trái pháp luật dẫn đến việc chậm giao tài sản bán đấu giá thành mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường.
Tình huống 18. Anh Hoàng Văn
Nam thành phố Nam Định có hỏi: Pháp luật quy định trong
thời gian chưa bàn giao được tài sản cho người mua thì cơ quan thi hành án dân
sự phải làm thủ tục gì? Nếu không giao được tài sản cho người mua theo đúng thời
hạn trong hợp đồng bán đấu giá tài sản thì người mua có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp
đồng không?
Trả lời:
Căn
cứ khoản 4 Điều 27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, trong thời gian chưa giao được tài sản, cơ quan thi
hành án dân sự làm thủ tục đứng tên gửi số tiền đó vào ngân hàng theo hình thức
gửi tiền có kỳ hạn 01 tháng cho đến khi giao được tài sản, phần lãi tiền gửi
được cộng vào số tiền gửi ban đầu để thi hành án; trường hợp không giao được
tài sản thì phần lãi tiền gửi thuộc về người mua được tài sản bán đấu giá, trừ
trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định khác.
Trường hợp đến
hạn theo hợp đồng bán đấu giá tài sản mà không giao được tài sản cho người mua
được tài sản bán đấu giá thì người này có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng.
Tình huống 19. Anh
Trần Văn Tín huyện Giao Thủy có hỏi: Pháp luật quy định việc xử lý khoản tiền
đặt trước trong trường hợp sau khi phiên đấu giá kết thúc mà người
trúng đấu giá tài sản từ chối mua hoặc đã ký hợp đồng mua bán tài sản bán đấu
giá nhưng chưa thanh toán thêm bất kỳ khoản tiền nào và việc xử lý tiền thanh toán mua tài sản đấu giá trong trường
hợp người mua được tài sản bán đấu giá không thực hiện đầy đủ hoặc không đúng
hạn nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng
được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Theo khoản 12 Điều 1 Nghị định số
33/2020/NĐ-CP, trường hợp sau khi phiên đấu giá kết thúc mà người trúng đấu giá tài sản từ
chối mua hoặc đã ký hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá nhưng chưa thanh toán
thêm bất kỳ khoản tiền nào thì sau khi trừ chi phí đấu giá tài sản, khoản tiền
đặt trước thuộc về ngân sách nhà nước và được sử dụng để thanh toán lãi suất
chậm thi hành án, tạm ứng chi phí bồi thường Nhà nước, bảo đảm tài chính để thi
hành án và các chi phí cần thiết khác.
Trường hợp
người mua được tài sản bán đấu giá không thực hiện đầy đủ hoặc không đúng hạn
nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng thì tiền thanh toán mua
tài sản đấu giá được xử lý theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán tài sản bán
đấu giá và quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán tài sản.
Tình huống 20. Anh Lê Văn Thành huyện Nam Trực có hỏi: Pháp luật
quy định thẩm quyền bán đấu giá quyền sở hữu trí tuệ như thế nào?
Trả lời:
Theo
Điều 31 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, thẩm quyền bán đấu giá quyền
sở hữu trí tuệ được quy định như sau:
- Tổ chức bán đấu
giá thực hiện việc bán đấu giá quyền sở hữu trí tuệ có giá trị trên 10.000.000
đồng;
- Chấp hành viên
thực hiện việc bán đấu giá quyền sở hữu trí tuệ có giá trị đến 10.000.000 đồng
hoặc trong trường hợp tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi tổ chức thi
hành án chưa có tổ chức bán đấu giá, hoặc tuy có nhưng tổ chức đó từ chối ký
hợp đồng dịch vụ bán đấu giá.
Tình huống 21.
Chị Đặng Hoài Thương huyện Vụ Bản có hỏi: Pháp
luật quy định trách nhiệm nộp thuế giá trị gia tăng trong trường hợp giá
khởi điểm chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng mà tài sản bán đấu giá thuộc diện
phải chịu thuế giá trị gia tăng theo quy định như thế nào?
Trả lời:
Theo khoản 2 Điều 5 Thông tư liên tịch số
11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC, khi ký hợp đồng với tổ
chức bán đấu giá tài sản, cơ quan thi hành án dân sự phải ghi trong hợp đồng ủy
quyền bán đấu giá tài sản thông tin người mua được tài sản bán đấu giá phải
chịu trách nhiệm nộp thuế giá trị gia tăng trong trường hợp giá khởi điểm chưa
bao gồm thuế giá trị gia tăng mà tài sản bán đấu giá thuộc diện phải chịu thuế
giá trị gia tăng theo quy định. Thông tin này phải được đưa vào nội dung thông
báo công khai về việc bán đấu giá tài sản.
Tình huống 22.
Anh Trịnh Đức Hùng thành phố Nam Định có hỏi: Khi nhận được yêu cầu của
người mua được tài sản bán đấu giá hoặc của người phải thi hành án về việc hủy kết quả đấu giá,
trong thời gian bao lâu Chấp hành viên phải tổ chức thỏa thuận
về việc hủy kết quả bán đấu giá tài sản?
Trả lời:
Theo khoản 3 Điều 5 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC,
Chấp hành viên tổ chức thỏa thuận về việc hủy
kết quả bán đấu giá tài sản trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được yêu
cầu của người mua được tài sản bán đấu giá hoặc của người phải thi hành án.
Thành phần tham gia
thỏa thuận được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Tình huống 23. Chị
Trần Thu Hà huyện Nghĩa Hưng có hỏi: Pháp luật quy định trong quá trình xử lý tài sản để thi hành án, người được thi hành
án chết mà không có người thừa kế thì xử lý như thế nào?
Trả lời:
Theo
khoản 4 Điều 5 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC,
trong quá trình xử lý tài sản để thi hành án, người được thi hành án chết mà không có người thừa kế thì xử
lý như sau:
- Trường hợp tài sản chưa được tổ
chức bán đấu giá hoặc đã đưa ra bán đấu giá nhưng không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc đấu giá
không thành thì Chấp hành viên căn cứ vào quyết định đình chỉ thi hành án để
giải tỏa kê biên và trả lại tài sản cho người phải thi hành án.
- Trường hợp tài sản đã được bán
đấu giá thành thì số tiền thu được từ việc bán đấu giá được trừ đi các khoản
chi phí cưỡng chế, thẩm định giá, bán đấu giá tài sản đó. Số tiền phải thi hành
cho người được thi hành án chết thuộc về ngân sách nhà nước, số tiền còn lại
(nếu có) được giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 24. Anh
Đỗ Thanh Hải thành phố Nam Định hỏi: Giá khởi điểm để bán đấu giá được xác định
như thế nào?
Trả lời:
Căn cứ Điều 98 Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH
ngày 11/12/2014 và Điều 26 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, giá khởi điểm để bán đấu giá
được xác định như sau:
- Giá tài sản do đương sự thỏa thuận là giá khởi điểm
để bán đấu giá.
- Trường hợp đương sự có thỏa thuận về tổ chức thẩm
định giá thì Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá đó.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên
tài sản, Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa
bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản kê biên trong các
trường hợp sau đây:
+ Đương sự
không thỏa thuận được về giá và không thỏa thuận được việc lựa chọn tổ chức
thẩm định giá;
+ Tổ chức thẩm định giá do đương sự lựa chọn từ chối
việc ký hợp đồng dịch vụ;
+ Thi hành phần bản án, quyết định quy định tại khoản
1 Điều 36 của Luật này.
- Chấp hành viên xác định giá trong các trường hợp sau
đây:
+ Không
thực hiện được việc ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản kê biên. Trong trường hợp
này, Chấp
hành viên có thể lựa chọn và ký hợp đồng với tổ chức thẩm định giá ngoài địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản
kê biên; trường hợp vẫn không thể ký được hợp đồng thì Chấp hành viên tham khảo
ý kiến của cơ quan tài chính cùng cấp hoặc cơ quan chuyên môn quản lý ngành,
lĩnh vực của tài sản kê biên trước khi xác định giá của tài sản kê biên. Việc
tham khảo ý kiến của cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn có liên quan phải
lập thành văn bản hoặc biên bản có chữ ký của Chấp hành viên và cơ quan tài
chính, cơ quan chuyên môn đó. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đề
nghị của Chấp hành viên mà cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn không có ý
kiến bằng văn bản thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có văn bản đề nghị
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp
chỉ đạo các cơ quan chuyên môn có ý kiến để Chấp hành viên xác định giá tài sản
kê biên.
+ Tài
sản kê biên thuộc loại tươi sống, mau hỏng hoặc có giá trị nhỏ (là tài sản mà tại
thời điểm xác định giá, tài sản giống hệt hoặc tương tự chưa qua sử dụng có giá
mua bán trên thị trường không quá 10.000.000 đồng) mà đương sự không thỏa thuận được với nhau về giá.
Chính phủ quy định về tài sản có giá trị nhỏ.
Tình huống 25. Chị Đoàn Thị Mỹ huyện Giao
Thủy có hỏi: Pháp luật quy định việc định giá lại tài sản kê biên được
thực hiện trong các trường hợp nào? Và
giá khởi điểm để bán đấu giá trong trường hợp định giá lại là giá nào?
Trả
lời:
Theo khoản 1 Điều 99 Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH
ngày 11/12/2014, Việc định giá lại tài sản kê biên được thực hiện trong các
trường hợp sau đây:
- Chấp
hành viên có vi phạm nghiêm trọng quy định pháp luật về định giá tài sản kê
biên dẫn đến sai lệch kết quả định giá tài sản;
- Đương
sự có yêu cầu định giá lại trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu giá
tài sản. Yêu cầu định giá lại chỉ được thực hiện một lần và chỉ được chấp nhận
nếu đương sự có đơn yêu cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được thông báo về kết quả thẩm định giá và phải nộp ngay tạm ứng chi phí định
giá lại tài sản.
Theo
khoản 3 Điều 99 Luật Thi hành án
dân sự số 12/VBHN-VPQH ngày 11/12/2014, giá thẩm định lại được lấy làm giá khởi
điểm để bán đấu giá theo quy định.
Tình huống 26. Chị Phạm Thị Thà huyện Hải Hậu có hỏi: Pháp luật quy
định như thế nào về thỏa thuận tổ chức thẩm định giá?
Trả lời:
Theo Điều 25 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP,
việc thỏa thuận về tổ chức thẩm định giá được quy định như sau:
- Trường hợp
đương sự có thỏa thuận về tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương nơi có tài sản kê biên hoặc tổ chức thẩm định giá trên
địa bàn khác thì Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá do đương sự lựa chọn.
- Việc thỏa thuận
của đương sự về lựa chọn tổ chức thẩm định giá cũng được thực hiện đối với việc
định giá lại tài sản kê biên.
Tình huống 27.
Anh Nguyễn Hoài Nam thành phố Nam Định có hỏi: Pháp luật quy định biên bản kê
biên tài sản phải có những nội dung chính gì?
Trả lời:
Theo khoản 2 Điều
88 Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH ngày
11/12/2014, việc kê biên tài sản phải lập biên bản.
Biên bản phải ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm
kê biên, họ, tên Chấp hành viên, đương sự hoặc người được ủy quyền, người lập
biên bản, người làm chứng và người có liên quan đến tài sản; diễn biến của việc
kê biên; mô tả tình trạng từng tài sản, yêu cầu của đương sự và ý kiến của
người làm chứng.
Biên bản kê biên có chữ ký của đương sự
hoặc người được ủy quyền, người làm chứng, đại diện chính quyền cấp xã hoặc đại
diện tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng chế, Chấp hành viên và người lập biên bản.
Tình huống 28. Chị
Trần Hải Thanh huyện Vụ Bản có hỏi: Tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế
chấp thì Chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý không?
Trả lời:
Theo Điều 90 Luật Thi
hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH ngày 11/12/2014, trường hợp người phải thi hành
án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án,
Chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang
cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và
chi phí cưỡng chế thi hành án. Khi kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp, Chấp
hành viên phải thông báo ngay cho người nhận cầm cố, nhận thế chấp; khi xử lý
tài sản kê biên, người nhận cầm cố, nhận thế chấp được ưu tiên thanh toán theo
quy định pháp luật.
Theo khoản 3 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP,
đối với tài sản đã được cầm
cố, thế chấp hợp pháp mà kết quả xác minh tại thời điểm thi hành án cho thấy
tài sản có giá trị bằng hoặc nhỏ hơn nghĩa vụ phải thanh toán theo hợp đồng cầm
cố, thế chấp thì Chấp hành viên phải thông báo bằng văn bản cho người nhận cầm
cố, thế chấp biết nghĩa vụ của người phải thi hành án và yêu cầu khi thanh toán
hết nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc khi xử lý tài sản cầm cố, thế chấp phải thông
báo cho cơ quan thi hành án dân sự biết. Cơ quan thi hành án dân sự kê biên tài
sản sau khi đã được giải chấp hoặc thu phần tiền còn lại sau khi xử lý tài sản
để thanh toán hợp đồng đã ký, nếu có. Nếu người nhận cầm cố, thế chấp không
thông báo hoặc chậm thông báo mà gây thiệt hại cho người được thi hành án thì
phải bồi thường theo quy định
của pháp luật.
Tình huống 29. Anh Đặng Văn Lâm huyện Ý Yên có hỏi: Trường
hợp tài sản kê biên là nhà ở, cửa hàng đang cho thuê được bán đấu giá mà thời
hạn thuê hoặc thời hạn lưu cư vẫn còn thì giải quyết như thế nào?
Trả lời:
Theo khoản 3 Điều
95 Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH ngày
11/12/2014, khi kê biên nhà ở của người phải thi hành án đang cho thuê, cho ở
nhờ thì Chấp hành viên phải thông báo ngay cho người đang thuê, đang ở nhờ
biết.
Trường hợp tài sản kê biên là nhà ở, cửa
hàng đang cho thuê được bán đấu giá mà thời hạn thuê hoặc thời hạn lưu cư vẫn
còn thì người thuê có quyền tiếp tục được thuê hoặc lưu cư theo quy định của Bộ
luật dân sự.
Tình huống 30.
Chị Đặng Hồng Hoa huyện Mỹ Lộc có hỏi: Pháp luật quy định việc kê biên, xử
lý tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng và của hộ gia đình được
thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều
24 Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP, đối
với tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng thì Chấp hành viên
xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ,
chồng biết.
Đối với tài sản
thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì Chấp hành viên
xác định phần sở hữu, sử dụng theo số lượng thành viên của hộ gia đình tại thời
điểm xác lập quyền sở hữu tài sản, thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê
đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất. Chấp hành viên
thông báo kết quả xác định phần sở hữu, sử dụng cho các thành viên trong hộ gia
đình biết.
Trường hợp vợ
hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình không đồng ý với việc xác định của
Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời
hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ. Hết thời hạn này mà không có
người khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại
cho vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình giá trị phần tài sản thuộc
quyền sở hữu, sử dụng của họ.