Giới thiệu bố cục và một số điểm mới của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020
Luật Bảo vệ môi trường (BVMT)
được Quốc hội khóa
XIV kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 17/11/2020 và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2022, theo đó:
1.
Bố cục
của Luật bảo vệ môi trường
Luật
gồm 16 chương, 171 điều (giảm 04 chương, tăng 1 Điều so với luật Bảo vệ môi trường
năm 2014); được bố cục lại so với Luật BVMT năm 2014, đưa các quy định về bảo vệ
các thành phần môi trường lên đầu, thể hiện rõ mục tiêu xuyên suốt là bảo vệ
các thành phần môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân, coi đây là nội dung trọng
tâm, quyết định cho các chính sách BVMT khác.
Luật
đồng bộ các công cụ quản lý môi trường theo từng giai đoạn của dự án, bắt từ
khâu xem xét chủ trương đầu tư, thẩm định dự án, thực hiện dự án cho đến khi dự
án đi vào vận hành chính thức và kết thúc dự án, bao gồm: Chiến lược BVMT quốc
gia, quy hoạch BVMT, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá sơ bộ tác động
môi trường, đánh giá tác động môi trường (ĐTM), giấy phép môi trường (GPMT) và
đăng ký môi trường.
Lần
đầu tiên, Luật thiết kế khung chính sách hướng đến việc hình thành đạo luật về
BVMT có tính tổng thể, toàn diện và hài hòa với hệ thống pháp luật về kinh tế -
xã hội; cải cách mạnh mẽ, cắt giảm trên 40% thủ tục hành chính (TTHC), giảm thời
gian thực hiện các TTHC từ 20-85 ngày, góp phần giảm chi phí tuân thủ của doanh
nghiệp.
2. Một số nội dung
chính sách, quy định mới
2.1. Quy định cộng đồng dân cư
là một chủ thể trong công tác BVMT
Lần đầu tiên Luật BVMT năm 2020 đã bổ sung “cộng đồng dân cư” vào
phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng nhằm khẳng định vị trí, vai trò của nhóm đối tượng quan trọng này trong công tác
BVMT cũng như thực hiện một trong những mục tiêu xuyên suốt của Luật là bảo vệ
sức khỏe người dân, đảm bảo người dân được sống trong môi trường trong lành.
Nhằm tạo thuận lợi cho cộng đồng dân cư
phát huy được vai trò của mình trong công tác BVMT, Luật đã bổ sung quy định
thiết lập hệ thống trực tuyến tiếp nhận, xử lý, trả lời
phản ánh, kiến nghị, tham vấn của tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư về BVMT,
qua đó giúp cộng đồng dân cư có thể tham gia giám sát hoạt động BVMT thông qua
công nghệ thông tin, tương tác các ứng dụng thông minh trên điện thoại di động.
2.2. Tăng cường công khai
thông tin, tham vấn, phát huy vai trò giám sát, phản biện, đồng thời được bảo đảm
quyền và lợi ích của cộng đồng dân cư khi tham gia các hoạt động BVMT
Vấn đề
công khai thông tin đã được quy định xuyên suốt, thống nhất trong Luật BVMT
2020 theo các nội dung cụ thể về BVMT trong các Chương của Luật, cùng với một
khoản riêng quy định việc cung cấp, công khai thông tin về môi trường. Đối với
việc thẩm định phê duyệt các báo cáo Đánh giá tác động môi trường các vấn đề về
tham vấn ý kiến đối với dự án, công khai báo cáo đánh giá tác động môi trường
cũng được quy định cụ thể tại các Điều 36, 37, 38 Luật BVMT, nhằm đảm bảo
nguyên tắc BVMT theo quy định tại Điều 4 Luật BVMT 2020. Luật cũng đã quy định
trách nhiệm của chủ dự án trong việc tham vấn ý kiến các bên có liên quan.
2.3. Thay đổi phương thức
quản lý môi trường đối
với dự án đầu tư theo các
tiêu chí môi trường; kiểm soát chặt chẽ dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi
trường mức độ cao, thực hiện hậu kiểm đối với các dự án có công nghệ tiên tiến
và thân thiện môi trường; cắt giảm thủ tục hành chính
- Luật
BVMT 2020 đã thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy quản lý môi trường thông
qua thể chế hóa chính sách phát triển dựa trên quy luật tự
nhiên, không hy sinh môi trường để đổi lấy tăng trưởng kinh tế; BVMT không chỉ
là phòng ngừa, kiểm soát, xử lý chất thải; các hoạt động sản xuất, phát triển
phải hài hòa với tự nhiên, khuyến khích bảo vệ và phát triển tự nhiên. Đồng thời,
Luật cũng đặt ra các tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường nhằm thực hiện mục tiêu bảo
đảm người dân Việt Nam được hưởng chất lượng môi trường ngang bằng với các nước
trên thế giới và cũng hài hòa với quy định của quốc tế để góp phần thực hiện
các cam kết quốc tế của Việt Nam về BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Lần đầu tiên, Luật tiếp cận phương pháp quản lý môi trường
xuyên suốt, khoa học đối với dự án đầu tư dựa trên các tiêu chí môi trường; sàng lọc,
không khuyến khích các dự án không
tuân theo quy luật tự nhiên, chiếm dụng lớn
diện tích rừng, đất lúa, tác động đến các
di sản thiên nhiên, khu bảo tồn; áp dụng công cụ
quản lý môi trường phù hợp theo từng giai đoạn từ việc xây dựng chiến
lược, quy hoạch đến thực hiện dự án đầu tư.
Theo đó dự án đầu tư được phân thành 04 nhóm: Có nguy cơ tác động xấu
đến môi trường mức độ cao, có nguy cơ, ít có nguy cơ hoặc không có nguy cơ tác
động xấu đến môi trường. Tương ứng với từng đối tượng dự án cụ thể, cơ quan quản
lý nhà nước về môi trường sẽ áp dụng các cơ chế quản lý phù hợp, cụ thể là:
+
Quy định chỉ đối tượng có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao (Nhóm
I) mới phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường. Quy định này nhằm khắc phục các
hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành, gồm: Giảm TTHC cho nhiều nhà đầu tư,
theo đó các dự án không thuộc Nhóm I sẽ không phải đánh giá sơ bộ tác động môi
trường nhằm tiết kiệm được thời gian và chi phí.
+ Áp
dụng đầy đủ các công cụ môi trường để quản lý, sàng lọc dự án đầu tư có nguy cơ
tác động xấu đến môi trường mức độ cao (đánh giá sơ bộ tác động môi trường,
ĐTM, cấp GPMT nếu phát sinh chất thải); đối với các dự án áp dụng công nghệ
tiên tiến và thân thiện môi trường được cấp GPMT ngay từ giai đoạn nghiên cứu
khả thi và tổ chức hậu kiểm (thông qua thanh tra, kiểm tra) khi dự án đi vào hoạt
động hoặc chỉ phải đăng ký môi trường (không phải là thủ tục hành chính, được
thực hiện bằng hình thức trực tuyến, đơn giản) tại UBND cấp xã. Bên cạnh đó, Luật
cũng cải cách mạnh mẽ TTHC thông qua việc tích hợp toàn bộ các giấy phép, giấy
xác nhận về môi trường vào chung 01 GPMT và bãi bỏ các giấy phép có liên quan;
+ Xác lập lại đúng vai trò hoạt động
quan trắc chất thải của doanh nghiệp, Luật quy định các đối tượng xả nước thải,
bụi, khí thải lớn ra môi trường phải quan trắc định kỳ; đối tượng phải quan trắc
tự động, liên tục bao gồm các cơ sở thuộc loại hình có nguy cơ gây ô nhiễm môi
trường với lưu lượng phát thải trung bình trở lên và cơ sở không thuộc loại
hình có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với lưu lượng phát thải lớn, các khu, cụm
công nghiệp. Đối tượng, thông số, tần suất quan trắc cụ thể sẽ do Chính phủ quy
định để phù hợp với điều kiện phát triển khoa
học, công nghệ và yêu cầu BVMT trong từng thời kỳ.
2.4. Đã định chế nội dung sức khỏe môi trường; bổ sung nhiều
giải pháp bảo vệ các thành phần môi trường, đặc biệt là môi trường không khí,
môi trường nước
- Nội
dung sức khỏe môi trường tuy không có quy định riêng nhưng đã được định chế
trong toàn bộ Luật BVMT 2020, thông qua việc bảo vệ các thành phần môi trường,
qua đó bảo vệ sức khỏe người dân, bảo đảm quyền
mọi người được sống trong môi trường trong lành. Luật đã bổ sung nội dung quản
lý các chất ô nhiễm có tác động trực tiếp đến sức khỏe con người; quy định rõ
trách nhiệm của Bộ Y tế, các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh trong theo
dõi, kiểm soát, phòng ngừa các chất ô nhiễm ảnh hưởng đến sức khỏe con người
cũng như đánh giá mối quan hệ giữa sức khỏe môi trường với sức khỏe con người,
đặc biệt là mối quan hệ giữa ô nhiễm môi trường với các loại bệnh dịch mới.
-
Riêng ô nhiễm không khí và môi trường nước mặt đang là vấn đề bức xúc tại các
lưu vực sông và đô thị lớn của Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay hành lang pháp lý
chưa đầy đủ để quản lý chất lượng môi trường không khí, chất lượng môi trường
nước và thực hiện các biện pháp ứng phó khẩn cấp với tình trạng ô nhiễm không
khí tại các đô thị lớn.
Để
giải quyết vấn đề bức xúc nêu trên, Luật đã quy định việc lập và thực hiện kế
hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt, môi trường không khí nhằm nâng
cao hiệu quả bảo vệ các thành phần môi trường; đồng thời quy định về tiêu chí và phân
loại khu vực ô nhiễm môi trường đất, quy định nội dung về xử lý, cải tạo và phục
hồi môi trường đất.
Luật
cũng đã quy định rõ trách nhiệm của UBND cấp tỉnh trong việc xây dựng, phê duyệt
và tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí; đánh
giá, theo dõi chất lượng môi trường không khí và công khai thông tin; cảnh báo
cho cộng đồng và triển khai các biện pháp xử lý trong trường hợp chất lượng môi
trường không khí bị ô nhiễm; tổ chức thực hiện biện pháp khẩn cấp trong trường
hợp chất lượng môi trường không khí bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Không chỉ được quy định ở các nội dung về bảo vệ chất lượng môi trường
không khí, đất, nước, việc bảo vệ các thành phần môi trường này còn được thể hiện
tại nhiều nội dung có liên quan trong Luật như các nội dung về quản lý nước thải,
quản lý bụi, khí thải và các chất ô nhiễm khác cũng như các nội dung về quản lý
chất thải rắn (sẽ góp phần giảm tác động đến môi trường đất, nước và không
khí), quan trắc các thành phần môi trường, vv.
2.5. Thúc đẩy phân loại rác thải tại nguồn; định hướng cách
thức quản lý, ứng xử với chất thải, góp phần thúc đẩy kinh tế tuần hoàn ở Việt
Nam
- Hiện nay tỷ lệ chôn lấp rác thải ở Việt Nam còn cao, một
trong các nguyên nhân là do rác thải chưa được phân loại dẫn đến khó khăn trong
xử lý. Để khắc phục tình trạng này, Luật BVMT 2020 đã quy định việc thu phí rác
thải dựa trên khối lượng hoặc thể tích thay cho việc tính bình quân theo hộ gia
đình hoặc đầu người như hiện nay. Cơ chế thu phí này sẽ góp phần thúc đẩy người
dân phân loại, giảm thiểu rác thải phát sinh tại nguồn do nếu không thực hiện
việc này thì chi phí xử lý rác thải phải nộp sẽ cao, thông qua quy định rác thải
sinh hoạt phải được phân làm 03 loại: (i) Chất thải rắn có khả năng tái sử dụng,
tái chế; (ii) chất thải thực phẩm; (iii) Chất thải rắn sinh hoạt khác. Bộ
TN&MT đã nghiên cứu kỹ lưỡng mô hình và kinh nghiệm của các quốc gia trên
thế giới hiện đang thực hiện rất thành công việc thu phí xử lý rác thải qua hình thức bán bao bì, thiết bị đựng rác
như Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia phát triển khác.
Để bảo đảm tính khả thi của cơ chế này,
Luật đã đưa ra một số quy định như: (i) Căn cứ điều kiện
kinh tế - xã hội của địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc phân
loại cụ thể chất thải rắn sinh hoạt với thời hạn áp dụng chậm nhất là ngày
31/12/2024; (ii) Tại các điểm tập kết rác thải, nếu phát hiện việc phân loại
không đúng quy định thì đơn vị thu gom, vận chuyển có quyền từ chối thu gom,
vận chuyển và thông báo cơ quan có thẩm quyền để kiểm tra, xác định hộ gia
đình, cá nhân vi phạm và xử lý nghiêm (thông qua hệ thống camera giám sát);
(iii) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội các cấp vận động
cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân thực hiện phân loại chất thải rắn sinh
hoạt tại nguồn. Cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị - xã hội có trách nhiệm
giám sát việc phân loại chất thải rắn sinh hoạt của các hộ gia đình, cá nhân;
(iv) Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ, xử lý hoặc
chuyển cấp có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý chất
thải rắn sinh hoạt theo quy định.
Ngoài ra, rác
thải sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân khu vực nông thôn sau khi phân
loại được khuyến khích tận dụng tối đa lượng chất thải thực phẩm làm phân bón
hữu cơ, làm thức ăn chăn nuôi để phù hợp với điều kiện nông thôn tại Việt Nam.
- Nhằm hướng tới phát triển kinh
tế tuần hoàn, tăng cường tái chế, tái sử dụng phế liệu trong nước để hạn chế việc
nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, ngoài quy định trách nhiệm phân loại
chất thải rắn công nghiệp phát sinh từ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
thành các loại: (i) nhóm chất thải rắn công nghiệp thông thường được tái sử dụng,
tái chế làm nguyên liệu sản xuất; (ii) nhóm chất thải rắn đáp ứng tiêu chuẩn,
quy chuẩn, hướng dẫn kỹ thuật được sử dụng trong sản xuất vật liệu xây dựng và
san lấp mặt bằng; (iii) nhóm chất thải rắn công nghiệp thông thường phải xử lý,
Luật lần đầu tiên đã quy định trách nhiệm mở rộng của tổ chức, cá nhân sản xuất,
nhập khẩu các sản phẩm, bao bì có khả năng tái chế/khó có khả năng tái chế phải
thu hồi với tỷ lệ và quy cách bắt buộc hoặc thông qua hợp đồng dịch vụ hoặc cơ
chế đóng góp tài chính để hỗ trợ tái chế sản phẩm, bao bì do mình sản xuất, nhập
khẩu.
2.6. Lần đầu tiên chế định về thẩm quyền quản lý nhà nước dựa
trên nguyên tắc quản lý tổng hợp, thống nhất, một việc chỉ giao cho một cơ quan
chủ trì thực hiện; phân cấp triệt để cho địa phương
Luật BVMT 2020 đã bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xả
nước thải vào nguồn nước, xả nước thải vào công trình thủy lợi mà lồng ghép nội
dung này trong GPMT nhằm thống nhất trách nhiệm, thẩm quyền và nguyên tắc quản
lý tổng hợp tài nguyên nước; đồng thời giảm TTHC mạnh mẽ cho doanh nghiệp. Song
song với chế định này, Luật cũng đã bổ sung trách nhiệm, thẩm quyền tham gia,
phản biện và đồng thuận của cơ quan quản lý công trình thủy lợi ngay từ giai đoạn
ĐTM cho đến khi cấp GPMT đối với cơ sở xả nước thải vào công trình thủy lợi nhằm
tăng cường công tác phối hợp của các cơ quan.
Luật đã phân cấp mạnh mẽ cho địa
phương thông qua chế định giao UBND cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với các bộ có
liên quan thẩm định báo cáo ĐTM đối với các dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt chủ
trương đầu tư, quyết định đầu tư của các Bộ quản lý công trình xây dựng chuyên
ngành (quy định hiện hành phân cấp các Bộ, ngành đều có thể thẩm định báo cáo
ĐTM) đồng thời quy định các bộ có liên quan có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh trong quá trình thực hiện nhằm bảo đảm hiệu quả. Quy định này
sẽ bảo đảm quản lý thống nhất tại địa
phương, thuận lợi cho công tác kiểm tra, giám sát, cấp phép sau này và phù hợp
với xu hướng phân cấp cho địa phương như hệ thống pháp luật hiện hành.
2.7. Lần đầu chế định cụ
thể về kiểm toán môi trường nhằm tăng cường năng lực, hiệu quả quản lý môi trường
của doanh nghiệp
- Luật BVMT 2020 đã bổ sung nội dung về kiểm toán môi trường
nhằm điều chỉnh hoạt động kiểm toán trong nội bộ tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ do đơn vị tự thực hiện hoặc thông qua dịch vụ kiểm toán nhằm
tăng cường năng lực quản lý môi trường của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nhận
biết lỗ hổng trong quản lý môi trường và có giải pháp điều chỉnh hoạt động quản
lý môi trường được hiệu quả hơn.
- Luật cũng đã
bổ sung quy định Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán trong lĩnh vực môi trường
theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước và pháp luật có liên quan.
2.8. Cụ thể hóa các quy định về ứng phó BĐKH, thúc đẩy phát
triển thị trường các-bon trong nước
- Luật BVMT 2020 đã bổ sung các quy định về thích ứng với
BĐKH, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ô-zôn, trong đó xác định nội
dung và trách nhiệm của Bộ TN&MT, các Bộ, ngành liên quan và địa phương về
thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; bổ sung quy định về lồng ghép nội dung ứng phó với BĐKH vào hệ thống chiến
lược, quy hoạch, thực hiện cam kết quốc tế về BĐKH và bảo vệ tầng ô-dôn.
- Đặc biệt,
Luật đã lần đầu tiên chế định về tổ chức và phát triển thị trường các-bon như là công cụ để thúc đẩy giảm phát thải
khí nhà kính trong nước, góp phần thực hiện đóng góp về giảm nhẹ phát thải khí
nhà kính do Việt Nam cam kết khi tham gia Thỏa thuận Paris về BĐKH. Trong đó,
quy định rõ đối tượng được phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính và có quyền
trao đổi, mua bán trên thị trường các-bon trong nước; căn cứ xác định hạn ngạch
phát thải khí nhà kính; trách nhiệm của các cơ quan quản lý, tổ chức liên trong
trong việc phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính; lộ trình và thời điểm
triển khai thị trường các-bon trong nước để phù hợp với điều kiện kinh tế
- xã hội của đất nước và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên.
2.9. Hoàn
thiện hành lang pháp lý bảo vệ di sản thiên nhiên phù hợp với pháp luật quốc tế
về di sản thế giới, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế
Luật BVMT 2020 đã đưa ra các quy định về tiêu chí xác lập di sản thiên
nhiên dựa trên cơ sở các tiêu chí của quốc tế và thực tiễn điều kiện Việt Nam
hiện nay; trong đó đối với các đối tượng là di sản thiên nhiên đã được quy định
trong pháp luật về lâm nghiệp, thủy sản, đa dạng sinh học và di sản văn hóa thì
vẫn thực hiện theo các quy định này để tránh xáo trộn, chồng chéo. Đồng thời,
quy định việc điều tra, đánh giá, quản lý và BVMT di sản thiên nhiên để bảo vệ,
phát huy giá trị bền vững di sản thiên nhiên ở nước ta.
2.10. Tạo lập chính sách phát triển các mô hình
tăng trưởng kinh tế bền vững, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, phục hồi và phát triển
nguồn vốn tự nhiên
Luật BVMT 2020 đã bổ sung một chương về các công cụ kinh tế và nguồn lực cho BVMT. Trong
đó, đã bổ sung các chính sách về phát triển ngành công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường, sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường; ưu tiên thực hiện mua sắm xanh đối với dự án, nhiệm vụ sử
dụng ngân sách nhà nước; thúc đẩy việc
khai thác, sử dụng và phát triển vốn tự nhiên; đặc biệt là thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Đồng thời, bổ
sung chính sách về tín dụng xanh, trái phiếu xanh để huy động đa dạng các nguồn
lực xã hội cho BVMT./.